TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 38/2021/HSST NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 143/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 145/2020/QĐXXST-HS, ngày 15 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Đồng Duy K, giới tính: nam; sinh ngày 27 tháng 3 năm 1986; nơi cư trú: xã H S – huyện M Đ – thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đồng Văn H(Đã chết) và bà Đỗ Thị M, sinh năm 1949; vợ con: không; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.
Nhân thân:
- Ngày 22/4/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Dĩ An – tỉnh Bình Dương xử phạt 06 tháng 15 ngày tù giam về tội Trộm cắp tài sản.
Tiền án, tiền sự: Không;
Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Phú Thọ; có mặt tại phiên toà.
2. Họ và tên: Hoàng Mạnh L; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không;
Sinh ngày: 20 tháng 8 năm 1987; Tại: Ứng Hòa – Hà Nội;
Nơi cư trú: xã Hồng Q – huyện Ứng Hòa – thành phố Hà Nội;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Hoàng Văn N (Đã chết) Con bà: Đào Thị X Sinh năm: 1961 Vợ: Nguyễn Thị Diễm P Sinh năm: 1990 Cùng trú tại: xã H Q – huyện Ứng Hòa – thành phố Hà Nội;
Bị can có 01 con sinh năm 2017.
Bị can là con thứ hai trong gia đình có 04 anh em. Tiền án, tiền sự: Không Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Phú Thọ; có mặt tại phiên toà.
3. Họ và tên: Nguyễn Hồng Q; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không;
Sinh ngày: 11 tháng 02 năm 1986; Tại: Ninh Bình;
Nơi cư trú: xã LA – huyện L T – tỉnh Đồng Nai;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Quốc H (Đã chết) Con bà: Tống Thị N Sinh năm: 1956 Vợ: Nguyễn Thị K Sinh năm: 1994 Cùng trú tại: xã L A – huyện Long Thành – tỉnh Đồng Nai; Bị can là con thứ ba trong gia đình có 03 anh em.
Tiền án, tiền sự: Không Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Phú Thọ; có mặt tại phiên toà.
- Các bị hại:
+ Anh Nguyễn Tất K, sinh năm 1979, trú tại xã Tân Tiến, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Vắng mặt và đã có đơn xin xử vắng mặt;
+ Anh Đinh Văn H, sinh năm 1980, trú tại xã Q Tiến, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình; Vắng mặt và đã có đơn xin xử vắng mặt;
+ Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1979, trú tại xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc; Vắng mặt;
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1986, trú tại xã Tề Lỗ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc; Vắng mặt;
+ Anh Đinh Quốc Đ, sinh năm 1985, trú tại phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; Vắng mặt;
+ Anh Nguyễn Viết T, sinh năm 1977, trú tại phường Dương Nội, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; Vắng mặt;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đồng Duy K, Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q là những đối tượng không có nghề nghiệp. Để có tiền chi tiêu, K rủ Q và L đi trộm cắp L kiện máy xúc tại các công trường thi công san lấp mặt bằng trên địa bàn thành phố Hòa Bình. Để thực hiện hành vi, Q đã chủ động thuê xe ô tô nhãn hiệu KIA MORNING, màu đỏ, BKS 30E-435.87 của anh Nguyễn Viết Toán (SN 1977, trú tại: phường Dương Nội – quận Hà Đông – thành phố Hà Nội) để làm phương tiện di chuyển; đồng thời cùng L mua ba lô, kìm, cờ lê, dao, kéo để làm công cụ thực hiện hành vi trộm cắp. Cả ba đối tượng cùng nhau bàn bạc phân công nhiệm vụ: Q là lái xe chở K và L đi đến địa điểm trộm cắp tài sản, ở ngoài cảnh giới; K và L trực tiếp trộm cắp tài sản; sau khi trộm cắp được tài sản, K là người đi tiêu thụ; tiền bán được chia đều cho cả ba. Trong khoảng thời gian từ ngày 22/4/2020 đến ngày 06/5/2020 các đối tượng đã liên tiếp thực hiện 02 vụ trộm cắp L kiện máy xúc trên địa bàn thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, cụ thể như sau:
- Vụ thứ nhất: Chiều ngày 21/4/2020, Q điều khiển xe ô tô BKS 30E- 435.87 chở K và L di chuyển theo hướng Hòa Bình – Hòa Lạc, mục đích tìm kiếm các công trường san lấp mặt bằng có máy xúc, sơ hở để trộm cắp L kiện. Khi đi qua khu vực công trường đồi khai thác đất thuộc xóm Văn Minh – xã Q Tiến – thành phố Hòa Bình, cả nhóm phát hiện tại công trường có 03 chiếc máy xúc đang để tại ba tầng đất trên đồi, các đối tượng đã di chuyển quanh khu vực dò tìm đường vào. Sau khi tìm được đường vào, cả ba cùng thống nhất đêm quay lại để trộm cắp tài sản. Khoảng 00 giờ, ngày 22/4/2020, Q lái xe ô tô chở K và L đến khu vực đồi khai thác đất thuộc xóm Văn Minh – xã Q Tiến – thành phố Hòa Bình. Đến nơi, K và L xuống xe mang theo công cụ để trong chiếc ba lô gồm có kìm, cờ lê, dao, kéo đi lên đồi để tháo trộm L kiện xe máy xúc; còn Q điều khiển xe ô tô đi ra ngoài khu vực gần đường Hòa Lạc - Hòa Bình chờ và cảnh giới. K và L đi bộ lên khu vực đồi khai thác đất, đi lên tầng đất trên cùng nơi để chiếc máy xúc nhãn hiệu KOMATSU PC200-3 của anh Nguyễn Tất Kiểm (SN 1979, trú tại: xã Tân Tiến – huyện Chương Mỹ – thành phố Hà Nội). K đứng cảnh giới ở dưới, còn L trèo lên máy xúc dùng đèn điện thoại soi và dùng công cụ đã chuẩn bị từ trước tháo tấm kính chắn gió phía sau chui vào trong tháo trộm bộ L kiện máy xúc gồm hộp đen và bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOMATSU PC200-3. Sau khi lấy trộm được bộ L kiện máy xúc, K đưa ba lô cho L cất giấu đồ vào trong. Sau đó cả hai tiếp tục đi xuống tầng đất thứ hai, đi đến nơi để chiếc máy xúc nhãn hiệu KOBELCO SK330, của anh Đinh Văn H (SN 1980, trú tại: xã Q Tiến – thành phố Hòa Bình – tỉnh Hòa Bình). L đưa ba lô cho K cầm và trèo lên máy xúc, dùng công cụ đã chuẩn bị trước tháo mở trộm bộ L kiện máy xúc gồm hộp đen và bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOBELCO SK330. Trộm xong, L cho bộ L kiện trộm cắp được vào ba lô do K cầm. Sau khi trộm cắp được 02 bộ L kiện máy xúc, K gọi Q quay lại đón K và L. Sau đó, cả ba cùng mang tài sản trộm cắp được về nhà nghỉ đã thuê hôm trước đó ở Hà Nội để ngủ. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, khi Q và L ngủ tại nhà nghỉ, K điều khiển xe ô tô mang 02 bộ L kiện máy xúc trộm cắp được bán cho anh Nguyễn Văn B (SN 1986, trú tại: xã Tề Lỗ – huyện Yên Lạc – Vĩnh Phúc) với số tiền 20.000.000 đồng. Sau đó, anh B đã bán số L kiện mua được cho một người không quan biết với số tiền 20.000.000 đồng. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra chưa thu giữ được vật chứng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 61/KL-HĐĐG ngày 29/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hòa Bình, kết luận: “bộ hộp đen, bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOMATSU 200PC-3 trị giá 38.500.000 đồng; bộ hộp đen, bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOBELCO SK330 trị giá 34.000.000 đồng.” - Vụ thứ hai: Ngày 05/5/2020, Q tiếp tục điều khiển xe ô tô chở K và L đi theo đường Hòa Lạc – Hòa Bình lên khu vực thành phố Hòa Bình, tiếp tục tìm kiếm các công trường có máy xúc làm việc, lợi dụng sơ hở để trộm cắp L kiện. Khi đến khu vực xóm Trung Thành – xã Mông Hóa – thành phố Hòa Bình, cả nhóm phát hiện phía bên trái đường theo hướng Hà Nội – Hòa Bình có công trường san lấp đất có 01 máy xúc nhãn hiệu KOMATSU PC200-7, không có người trông coi nên cả ba đã bàn bạc đêm sẽ quay lại để trộm cắp L kiện. Q chở K và L di chuyển lên khu vực thành phố Hòa Bình tìm chỗ ăn uống, nghỉ ngơi. Đến khoảng 01 giờ, ngày 06/5/2020, cả ba quay lại công trường san lấp đất ở xóm Trung Thành – xã Mông Hóa – thành phố Hòa Bình, Q đỗ xe ở ven đường liên xã đối diện công trường. K và L xuống xe đi bộ vào nơi để chiếc máy xúc trong công trường, cách đường khoảng 300m. Tại đây, K đứng bên dưới máy xúc để cảnh giới, L trực tiếp trèo lên máy xúc, sử dụng công cụ là kìm, cờ lê, dao, kéo đã chuẩn bị trước đó để cậy phá kính chắn gió, trèo vào tháo mở trộm bộ L kiện máy xúc gồm hộp đen, bảng điều khiển trung tâm của máy xúc KOMATSU PC200- 7 của anh Nguyễn Văn S (SN 1979, trú tại: xã Tam Hồng – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc). Sau đó, L và K mang tài sản vừa trộm cắp được ra chỗ Q đã đỗ xe rồi cùng nhau tẩu thoát, đi về Hà Nội thuê nhà nghỉ để ngủ. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, khi Q và L ngủ tại nhà nghỉ, K đã điều khiển xe ô tô đi bán bộ L kiện vừa trộm cắp được cho anh Đinh Quốc Đ (SN 1985, trú tại: phường Bích Đào – thành phố Ninh Bình – tỉnh Ninh Bình) được 7.000.000 đồng. Sau đó, anh Đ đã bán số L kiện mua được cho một người không quen biết với số tiền 7.000.000 đồng. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra chưa thu giữ được vật chứng.
Tại bản kết luận giá tài sản số 60/KL-HĐĐG ngày 29/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hòa Bình, kết luận: “hộp đen, bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOMATSU 200PC-7 trị giá 39.000.000 đồng.” Tại cáo trạng số 127/CT-VKS ngày 23/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình truy tố các bị cáo Đồng Duy K, Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 173, Điều 17, Điều 38, Điều 58, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đồng Duy K từ 36 đến 42 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản;
- Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 173, Điều 17, Điều 38, Điều 58, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Mạnh L từ 33 đến 39 tháng tù;
- Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 173, Điều 17, Điều 38, Điều 58, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng Q từ 33 đến 39 tháng tù.
- Về trách nhiệm dân sự:
Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự, + Đồng Duy K, Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q phải bồi thường toàn bộ thiệt hại tài sản bị trộm cắp cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Tất Kiểm số tiền 38.500.000đ, anh Đinh Văn H là 34.000.000đ và anh Nguyễn Văn S là 39.000.000đ tương đương với giá trị tài sản bị chiếm đoạt do tài sản không thu hồi được.
+ Đối với hợp đồng cho thuê xe giữa anh Nguyễn Viết Toán và Nguyễn Hồng Q, anh Toán không có đề nghị gì nên không đề cập.
- Về xử lý vật chứng:
+ Đối với 01 hộp đen, 01 bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOMATSU 200PC-3 của anh Nguyễn Tất Kiểm; 01 hộp đen, 01 bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOBELCO SK330 của anh Đinh Văn H và 01 hộp đen, 01 bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOMATSU 200PC-7 của anh Nguyễn Văn S, quá trình điều tra chưa thu giữ được vật chứng, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Hòa Bình ra thông báo truy tìm vật chứng, khi tìm được sẽ xử lý theo quy định.
+ Đối với các công cụ các bị can sử dụng trong quá trình thực hiện hành vị phạm tội gồm ba lô, kìm, cờ lê, dao, kéo, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công tỉnh Phú Thọ đã thu giữ và xử lý trong vụ án hình sự do Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Phú Thọ thụ lý giải quyết.
+ Đối với chiếc xe ôtô nhãn hiệu KIA MORNING, màu đỏ, BKS 30E-435.87 mà các bị can sử dụng để đi trộm cắp tài sản, quá trình điều tra xác định là tài sản của anh của anh Nguyễn Viết Toán, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Phú Thọ đã tạm giữ và xử lý theo quy định của pháp luật.
Các bị cáo, bị hại không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát Điều tra và Điều tra viên Công an thành phố Hòa Bình của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng Hình sự.
Quá trình điều tra các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai của các bị cáo Đồng Duy K, Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q tại Cơ quan Điều tra không có mâu thuẫn, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và tang vật thu giữ của các bị cáo cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Đồng Duy K, Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q là những người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội do ý thức coi thường pháp luật. Để có tiền chi tiêu, vào các ngày 22/4/2020 và 06/5/2020, các bị cáo đã chuẩn bị công cụ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản gồm 01 hộp đen, 01 bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOMATSU 200PC-3 của anh Nguyễn Tất Kiểm trị giá 38.500.000 đồng; 01 hộp đen, 01 bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOBELCO SK330 của anh Đinh Văn H trị giá 34.000.000 đồng và 01 hộp đen, 01 bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOMATSU 200PC-7 của anh Nguyễn Văn S trị giá 39.000.000 đồng nhằm mục đích bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là 111.500.000 đồng.
Hành vi nêu trên của Đồng Duy K, Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại mà còn ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương; Do vậy cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm khắc để răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Trong vụ án đồng phạm này, Đồng Duy K là người khởi xướng, rủ rê các đồng phạm khác cùng thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời là cảnh giới và tiêu thụ tài sản nên phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án. Đối với Nguyễn Hồng Q là người chuẩn bị phương tiện và Hoàng Mạnh L là người mua công cụ phạm tội và cả hai đều là người trực tiếp thực hiện việc trộm cắp tài sản nên đồng phạm với vai trò là người thực hành tích cực.
[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Đồng Duy K, Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q đã thực hiện 02 vụ trộm cắp vào các ngày 22/4/2020 và 06/5/2020. Ngoài hành vi trộm cắp tài sản trên, các bị cáo còn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại xã Tân Phú – huyện Tân Sơn – tỉnh Phú Thọ vào ngày 30/3/2020. Vụ án đang được Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Phú Thọ thụ lý giải quyết. Do vậy, cần xem xét áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.
[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.
Đối với bị cáo Đồng Duy K, gia đình bị cáo có mẹ bị cáo là bà Đỗ Thị M và bố bị cáo là ông Đồng Văn H1 là những người đã có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. (Các tình tiết giảm nhẹ khác ở khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, được hướng dẫn tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP).
[5]. Về nhân thân: Bị cáo Đồng Duy K có nhân thân xấu: Ngày 22/4/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Dĩ An – tỉnh Bình Dương xử phạt 06 tháng 15 ngày tù giam về tội Trộm cắp tài sản và được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội Trộm cắp tài sản một lần nữa, cần nghiêm khắc xử phạt bị cáo để răn đe, giáo dục. Các bị cáo Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q có nhân thân tốt, là lần đầu phạm tội, xét về tính chất, vai trò trong vụ án thấp hơn bị cáo Đồng Duy K.
[6]. Về quyết định hình phạt: Các bị cáo Đồng Duy K, Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q là những người có đầy đủ năng lực pháp luật, nhận thức đầy đủ hành vi, tự ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra; Khi áp dụng hình phạt cần xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo. Riêng bị cáo K được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự (gia đình có công với cách mạng). Đồng Duy K là người khởi xướng, rủ rê các đồng phạm khác cùng thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời tiêu thụ tài sản nên phải chịu hình phạt nghiêm khắc hơn các bị cáo còn lại. Đối với Nguyễn Hồng Q là người chuẩn bị phương tiện và Hoàng Mạnh L là người mua công cụ phạm tội và cả hai đều là người trực tiếp thực hiện việc trộm cắp tài sản nên đồng phạm với vai trò là người thực hành, việc xử phạt nhẹ hơn so với bị cáo Đồng Duy K là hợp lý, nhưng vẫn phải đảm bảo tính răn đe, giáo dục của pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo khai đã thực hiện 26 vụ trộm cắp, có một số vụ đang ở giai đoạn điều tra, một số vụ đã đưa ra xét xử. Xét thấy thời điểm này, không thể tổng hợp được hình phạt của các bị cáo vì các bị cáo bị Tòa án ở nhiều địa phương và nhiều cấp xét xử khác nhau. Do đó, căn cứ Khoản 3, Điều 56 Bộ luật Hình sự, cần để Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định pháp luật.
[7] Những người khác trong vụ án: Đối với Nguyễn Văn B và Đinh Quốc Đ là những người đã mua tài sản nhưng không biết nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có, cũng như anh Nguyễn Viết Toán đã cho bị cáo Q thuê xe ô tô BKS 30E- 435.87 nhưng không biết việc các bị cáo thuê xe làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
[8]. Về trách nhiệm dân sự:
+ Đồng Duy K, Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q phải bồi thường toàn bộ thiệt hại tài sản bị trộm cắp cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Tất Kiểm, anh Đinh Văn H và anh Nguyễn Văn S theo quy định của pháp luật.
+ Đối với hợp đồng cho thuê xe giữa anh Nguyễn Viết Toán và Nguyễn Hồng Q, anh Toán không có đề nghị gì nên không đề cập.
[9] .Về vật chứng vụ án:
+ Đối với 01 hộp đen, 01 bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOMATSU 200PC-3 của anh Nguyễn Tất Kiểm; 01 hộp đen, 01 bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOBELCO SK330 của anh Đinh Văn H và 01 hộp đen, 01 bảng điều khiển trung tâm máy xúc nhãn hiệu KOMATSU 200PC-7 của anh Nguyễn Văn S, quá trình điều tra chưa thu giữ được vật chứng, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Hòa Bình ra thông báo truy tìm vật chứng, khi tìm được sẽ xử lý theo quy định.
+ Đối với các công cụ các bị cáo sử dụng trong quá trình thực hiện hành vị phạm tội gồm ba lô, kìm, cờ lê, dao, kéo, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công tỉnh Phú Thọ đã thu giữ và xử lý trong vụ án hình sự do Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Phú Thọ thụ lý giải quyết.
+ Đối với chiếc xe ôtô nhãn hiệu KIA MORNING, màu đỏ, BKS 30E-435.87 mà các bị cáo sử dụng để đi trộm cắp tài sản, quá trình điều tra xác định là tài sản của anh của anh Nguyễn Viết Toán, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Phú Thọ đã tạm giữ và xử lý theo quy định của pháp luật.
[10].Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự, án phí dân sự theo quy định.
[11]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 17; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51 khoản 2 Điều 51 (đối với bị cáo Đồng Duy K); điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 48; Khoản 3 Điều 56; Điều 58 Bộ luật Hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
1.Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố các bị cáo Đồng Duy K, Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q phạm tội trộm cắp tài sản;
Xử phạt:
- Đồng Duy K 36 (ba mươi sáu) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành bản án.
- Hoàng Mạnh L 33 (ba mươi ba) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành bản án.
- Nguyễn Hồng Q 33 (ba mươi ba) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành bản án.
2. Về trách nhiệm dân sự:
Căn cứ Điều 587, Điều 589 Bộ luật Dân sự;
Buộc các bị cáo Đồng Duy K, Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q phải bồi thường toàn bộ thiệt hại tài sản bị trộm cắp cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Tất Kiểm, anh Đinh Văn H và anh Nguyễn Văn S. Cụ thể:
+ Bồi thường cho anh Nguyễn Tất K số tiền là 38.500.000đ (Ba mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng). Bị cáo Đồng Duy K phải bồi thường cho anh Nguyễn Tất K số tiền là 13.500.000đ (Mười ba triệu năm trăm nghìn đồng). Các bị cáo Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q, mỗi bị cáo phải bồi thường cho anh Nguyễn Tất Kiểm số tiền là 12.500.000đ (Mười hai triệu năm trăm nghìn đồng).
+ Bồi thường cho anh Đinh Văn H số tiền là 34.000.000đ (Ba mươi tư triệu đồng). Bị cáo Đồng Duy K phải bồi thường cho anh Đinh Văn H số tiền là 11.500.000đ (Mười một triệu năm trăm nghìn đồng). Bị cáo Hoàng Mạnh L phải bồi thường cho anh Đinh Văn H số tiền là 11.500.000đ (Mười một triệu năm trăm nghìn đồng). Bị cáo Nguyễn Hồng Q phải bồi thường cho anh Đinh Văn H số tiền là 11.000.000đ (Mười một triệu đồng).
+ Bồi thường cho anh Nguyễn Văn S số tiền là 39.000.000đ (Ba mươi chín triệu đồng). Các bị cáo Đồng Duy K, Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q, mỗi bị cáo phải bồi thường cho anh Nguyễn Văn S số tiền là 13.000.000đ (Mười ba triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án khoản tiền bồi thường mà bị cáo không thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời giam chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
3.Về án phí: các bị cáo Đồng Duy K, Hoàng Mạnh L và Nguyễn Hồng Q phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Án phí Dân sự sơ thẩm:
- Bị cáo Đồng Duy K phải nộp 1.900.000đ (Một triệu chín trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
- Bị cáo Hoàng Mạnh L phải nộp 1.850.000đ (Một triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
- Bị cáo Nguyễn Hồng Q phải nộp 1.825.000đ (Một triệu tám trăm hai mươi lăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4.Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án theo quy định của pháp luật. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 38/2021/HSST ngày 06/05/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 38/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về