Bản án 38/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 38/2020/HS-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 40/2020/HSST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/QĐXXST-HS ngày 15/5/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Duy T; sinh ngày 21/10/1991, tại Tuyên Quang. Nơi cư trú: Xóm 17, xã Tr M, huyện Y, tỉnh Q; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Cao Lan; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ tên bố: Nguyễn Duy C, Sinh năm 1967; Họ tên mẹ: Hoàng Thị H, Sinh năm 1973; Vợ: Trần Hồng Ng, sinh năm 1992; Con: Có 01 con, sinh năm 2015.

* Tiền án, tiền sự: Không.

* Nhân Thân: UBND phường Phan Thiết, thành phố Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 18 ngày 16/6/2015 về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, phạt tiền 750.000đ.

* Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/02/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. (Có mặt tại phiên toà)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ ngày 09/02/2020, Nguyễn Duy T, cư trú tại xóm 17, xã Tr M, huyện S, tỉnh Q là người nghiện ma túy, đi xe ô tô khách đến khu vực bến xe Mỹ Đình, thành phố Hà Nội mục đích tìm mua Methamphetamine về sử dụng. Tại bến xe Mỹ Đình, T gặp và hỏi mua được 01 gói Methamphetamine gói bằng nilon màu trắng trên mép có đường viền màu xanh, với số tiền 300.000 đồng của 01 người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ, sau đó T đi xe ô tô khách về nhà. Ngày 11/02/2020 T lấy một ít Methamphetamine ra sử dụng bằng hình thức hít vào cơ thể; số còn lại T cất giấu trong người, đến khoảng 23 giờ cùng ngày Tùng điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 22AA - 091.16 (xe T mượn của bà Hoàng Thị H, mẹ đẻ của T) đi tìm chỗ vắng người để sử dụng, khi đến khu vực gần Bệnh viện Công an tỉnh Tuyên Quang, thuộc tổ 05, phường Tân Hà, thành phố Tuyên Quang thì bị Tổ công tác Công an thành phố Tuyên Quang phát hiện, bắt quả tang hồi 23 giờ 15 phút cùng ngày. T tự giác giao nộp 01 gói Methamphetamine.

Tại Bản Kết luận giám định số 178/GĐKTHS ngày 14/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an - tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Duy T gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, số thứ tự 323 thuộc danh mục IIC, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018; khối lượng 0,208g (Không phẩy hai không tám gam).

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Nguyễn Duy T, kết quả: (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 phong bì niêm phong, trên các mép dán có chữ ký của Nguyễn Duy T, chữ ký của giám định viên và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang bên trong có 0,188 gam Methamphetamine (số còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định) là vật chứng của vụ án. Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen đã qua sử dụng; 01 xe mô tô biển kiểm soát 22AA - 091.16 ngày 02/3/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô cho bà Hoàng Thị H là chủ sở hữu hợp pháp, vì bà H không biết việc T mượn xe mô tô đi sử dụng ma túy nên không xử lý.

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 41/CT- VKSTP ngày 07 tháng 5 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy Tùng về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1; Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm tù đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/2/2020.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sựđề nghị HĐXX tịch thu tiêu huỷ số ma tuý, đã thu giữ.

- Trả cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen đã qua sử dụng (tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Cơ quan cảnh sát điều tra với Chi cục thi hành án dân sự).

- Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 22AA - 091.16 ngày 02/3/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô cho bà Hoàng Thị H là chủ sở hữu hợp pháp, vì bà H không biết việc T mượn xe mô tô đi sử dụng ma túy nên đề nghị HĐXX không xử lý. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi. Qua xác minh bị cáo không có tài sản nên đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Ngoài ra, kiểm sát viên còn đề nghị HĐXX tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; Bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản bắt quả tang; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 23 giờ 15 phút ngày 11/02/2020, tại khu vực tổ 05, phường Tân Hà, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Nguyễn Duy T, cư trú tại xóm 17, xã Tr M, huyện S, tỉnh Q, đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,208g (Không phẩy hai không tám gam) Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

[3] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Tuyên Quang. Về nhân thân bị cáo đã bị UBND phường Phan Thiết, thành phố Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 18 ngày 16/6/2015 về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, phạt tiền 750.000đ. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về mức án mà Viện kiểm sát đề nghị, Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp, có cơ sở để chấp nhận.

[7] Bị cáo chỉ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi. Qua xác minh bị cáo không có tài sản nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của bị cáo ngày 11/02/2020 Công an thành phố Tuyên Quang xử phạt hành chính tại Quyết định số 000658 ngày 25/02/2020, phạt Cảnh cáo nên HĐXX không xem xét.

Đối với người đàn ông theo bị cáo T khai nhận là người bán Methamphetamine cho T ở khu vực bến xe Mỹ Đình, thành phố Hà Nội, nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý nên HĐXX không xem xét.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, dán kín các mép, bên ngoài mặt trước phong bì có ghi “Tang vật vụ Nguyễn Duy T giám định ngày 12/02/2020”. Mặt trong phong bì niêm phong có chứa tang vật (ma tuý) thu giữ của Nguyễn Duy T, có khối lượng là 0,188g Methamphetamine. Mặt sau tại các mép dán của phong bì niêm phong có chữ ký xác nhận của Nguyễn Duy T cùng thành phần tham gia và 05 (năm) hình dấu của phòng KTHS công an tỉnh Tuyên Quang cần tuyên tịch thu tiêu huỷ.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen đã qua sử dụng vào mục đích liên lạc với gia đình, không sử dụng vào việc phạm tội nên cần tuyên trả cho bị cáo;

- Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 22AA - 091.16 ngày 02/3/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô cho bà Hoàng Thị H là chủ sở hữu hợp pháp, vì bà H không biết việc T mượn xe mô tô đi sử dụng ma túy nên đề nghị HĐXX không xử lý.

[10] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Duy T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/2/2020.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b, khoản 3, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, dán kín các mép, bên ngoài mặt trước phong bì có ghi “Tang vật vụ Nguyễn Duy T giám định ngày 12/02/2020”. Mặt trong phong bì niêm phong có chứa tang vật (ma tuý) thu giữ của Nguyễn Duy T, có khối lượng là 0,188g Methamphetamine. Mặt sau tại các mép dán của phong bì niêm phong có chữ ký xác nhận của Nguyễn Duy T cùng thành phần tham gia và 05 (năm) hình dấu của phòng KTHS công an tỉnh Tuyên Quang.

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu đen, loại màn hình cảm ứng, điện thoại đã qua sử dụng, màm hình bị xước vỡ, số IMEL 1: 356458/09/131017/7, số IMEL 2: 356459/09/131017/5 (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 08/5/2020).

3. Căn cứ các Điều 136, 331, 334 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

-Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

-Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;