Bản án 38/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 38/2020/HS-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2020/TLST- HS ngày 07 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh H, sinh năm 1992 tại Bình Dương. Nơi cư trú: Tổ 4, Ấp 1, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H1 (Đã chết) và bà Đỗ Thị T; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2017 ngày 09/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 07 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản” (Chấp hành xong ngày 28/9/2017).

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/4/2020 cho đến nay, có mặt.

Bị hại: Ông Nguyễn Thế T1 (Nù), sinh năm 1981. Nơi cư trú: Ấp 1, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Huỳnh Thị Tuyết N, sinh năm 1988. Nơi cư trú: Ấp 1, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Đoàn Xuân H2, sinh năm 1987; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Huỳnh Thị Tuyết N là chủ khoảng 220 cây sao su trồng trên thửa đất số 28, tờ bản đồ số 22 tọa lạc tại xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương. Do cần tiền tiêu xài, ngày 17/4/2020, Nguyễn Thanh H là em họ của bà N (Bà ngoại của H là chị ruột của bà ngoại của N) biết ông Nguyễn Thế T1 cần mua cây cao su nên đã liên hệ với ông T1. Sau khi xem, ông T1 đồng ý mua cây cao su với số tiền 12.000.000 đồng. Ngày 19/4/2020, Nguyễn Thanh H và Nguyễn Thế T1 đã gặp nhau tại nhà của ông Đoàn Xuân H2 để làm hợp đồng và thanh toán cho H số tiền 10.000.000 đồng (H thuê T1 dọn dẹp vườn cây sau khi cắt với số tiền 2.000.000 đồng).

Ngày 20/4/2020, ông T1 đến cắt cây thì biết được chủ vườn cây là của bà Huỳnh Thị Tuyết N. Bà N không cho cắt cây và cũng không nhờ H bán cây nên ông T1 đã đến gặp H để đòi lại tiền. Do H không trả lại tiền nên ngày 21/4/2020, ông T1 đã trình báo Công an xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương. Sau khi chiếm đoạt được tài sản, H đã tiêu xài hết số tiền 6.550.000 đồng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã thu hồi số tiền còn lại là 3.450.000 đồng.

Ngày 22/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị can, Lệnh tam giam đối với Nguyễn Thanh H.

Tại Bản Cáo trạng số 41/CT-VKSBTU ngày 07 tháng 7 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố Nguyễn Thanh H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Nguyễn Thanh H bồi thường cho ông Nguyễn Thế T1 số tiền còn lại là 6.550.000 đồng.

Bị cáo thống nhất nội dung bản cáo trạng truy tố, không tranh luận, không nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt.

[3] Về nội dung vụ án: Ngày 19/4/2020 tại xã Tân Bình, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, bị cáo Nguyễn Thanh H đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối bán thanh lý cây cao su nhưng không được sự đồng ý của bà Huỳnh Thị Tuyết N cho ông Nguyễn Thế T1 để chiếm đoạt số tiền 10.000.000 đồng của ông T1. Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố bị cáo Nguyễn Thanh H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, vì động cơ tư lợi, bị cáo sử dụng thủ đoạn gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị cáo có nhân thân xấu. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức án nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm trừng trị, răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Số tiền 10.000.000 đồng bị cáo H đã chiếm đoạt của ông T1, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã trả lại cho ông T1 số tiền 3.450.000 đồng. Do đó, cần buộc bị cáo H bồi thường tiếp cho ông T số tiền còn lại là 6.550.000 đồng.

[8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt đối với bị cáo, trách nhiệm dân sự là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và các Điều 584, Điều 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Căn cứ Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh và hình phạt:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/4/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Thanh H bồi thường cho ông Nguyễn Thế T1 số tiền 6.550.000 đồng (Sáu triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Thanh H phải chịu số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 327.500 đồng (Ba trăm hai mươi bảy nghìn năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:38/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;