Bản án 38/2020/HS-ST ngày 18/03/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 38/2020/HS-ST NY 18/03/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2020/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hải N - Sinh năm 1999; Nơi cư trú: Số 7/612/116 L, phường G, quận B, Thành phố H; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Anh T (đã chết); Con bà Nguyễn Bích P; Tiền án: Không; Tiền sự: Tháng 7/2019, bị Công an phường Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Bị cáo bị tạm giữ ngày 26/9/2019;

Tạm giam ngày 05/10/2019, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 của Công an Thành phố Hà Nội, có mặt.

2. Phạm Văn Đ- Sinh năm 2001; Nơi cư trú: Số 116 ngõ 612 L, phường G, quận B, Thành phố H; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc:

Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn Q; Con bà Nguyễn Thị T2; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ ngày 26/9/2019; Tạm giam ngày 05/10/2019, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 của Công an Thành phố Hà Nội, có mặt.

3. Đỗ Anh T3 - Sinh năm 1999; Nơi cư trú: Số 42 ngõ 403 B, phường B, quận H, Thành phố H; Nghề nghiệp: Sinh viên; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Thanh S; Con bà Trần Thị Mai H; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ ngày 26/9/2019; Thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 04/10/2019; Hiện bị cáo tại ngoại, có mặt.

4. Đào Minh H1 - Sinh năm 1995; ĐKHKTT tại: Tổ 9A S, phường T, thành phố V, tỉnh P; Nơi cư trú: Số 59 X, phường Q, quận T, Thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;

Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đào Minh S1; Con bà Đinh Thị L; Có vợ là: Nguyễn Thủy T4; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ ngày 26/9/2019; Thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 04/10/2019; Hiện bị cáo tại ngoại, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 01 giờ 30 phút ngày 26/9/2019, Tổ công tác Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy – Công an quận Hoàn Kiếm làm nhiệm vụ tại quán Bar Shark Clup số 21 Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội phát hiện tại bàn VIP 4 có Đào Minh H1 và Đỗ Anh T3 có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trong lòng bàn tay phải của T3 có 01 gói giấy ăn màu trắng, bên trong có 01 túi nilông kích thước khoảng 3x5 cm chứa 5 viên nén màu ghi hình lục giác, trên bề mặt có in chữ ‘qp’ – T3 và H khai nhận là ma túy ‘thuốc lắc’ mua của Nguyễn Hải N thông qua người giao là Phạm Văn Đ mục đích để bán lại cho khách tại quán bar. Tổ công tác đã lập biên bản, đưa T3 và H cùng tang vật về trụ sở làm việc.

Ngoài ra còn thu giữ của T3 : 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus màu đen kèm sim số 0979261688; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Vision, biển kiểm soát: 29E1 - 691.75.

Thu giữ của Đào Minh H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus màu hồng kèm sim số 0982488136.

Cơ quan điều tra đã tổ chức rà soát phát hiện Phạm Văn Đ ngồi trên xe máy Wave α màu đen biển kiểm soát 29 B1- 980.92 đang dừng đỗ tại trước cửa quán bar Bar Shark clup số 21 nên đã yêu cầu kiểm tra, tại chỗ Đ khai nhận là người mang ma túy bán cho Nguyễn Hải N cho T3. Đồng thời thu giữ của Phạm Văn Đ: 01 xe máy Honda Wave α màu đen biển kiểm soát: 29B1 - 980.92; 01 điện thoại di động Realme màu đen kèm sim số 0965392220 và 0582296811.

Đến khoảng 02 giờ ngày 26/9/2019, tổ công tác công an quận Hoàn Kiếm phát hiện Nguyễn Hải N đang dừng đỗ xe máy Wave α biển kiểm soát 29B1– 947.74, tại trước cửa số nhà 36 phố Tràng Tiền – Hoàn Kiếm. Khi tổ công tác yêu cầu kiểm tra, N đã khai nhận là người đưa ma túy để Đ đi bán cho T3. Tổ công tác đã đưa N về trụ sở Công an phường Tràng Tiền để làm rõ.

Thu giữ của Nguyễn Hải N: 01 xe máy nhãn hiệu Honda màu đỏ, biển kiểm soát: 29B1 – 94774; 01 điện thoại di động Iphone màu đỏ, kèm sim số:

0866771323; 01 điện thoại di động Masstel màu đen trắng, kèm sim số:

0944543948.

Tại Bản kết luận giám định số 6155/KLGĐ - PC09 ngày 03/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội xác định tang vật thu giữ của Nguyễn Anh T3 gồm: 05 viên nén hình lục giác màu ghi bên trong 01 túi nilông đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng: 2,981 gam (BL: 142).

Tại cơ quan điều tra, Đào Minh H1, Đỗ Anh T3, Phạm Văn Đ và Nguyễn Hải N khai nhận: Khoảng 22 giờ 50 phút ngày 25/9/2019, khi H1 đang làm việc ở quán bar thì nhận được tin nhắn từ số điện thoại: 0962034966 của Thiết (không rõ nhân thân) nhờ đặt bàn tại Bar Shark số 21 Tràng Tiền, Hoàn Kiếm. Khoảng 22 giờ 50 phút ngày 25/9/2019, ‘Thiết’ đến quán bar ngồi tại bàn Vip 4 và hỏi H1 mua 05 (năm) viên ma túy tổng hợp dạng ‘kẹo’, H1 báo với Tuấn để Tuấn đi lấy ma túy về bán cho khách. Do có quen biết và đã nghe Nguyễn Hải N có ma túy để bán, nên T3 gọi điện thoại cho N để mua 05 viên ma túy với giá 2.200.000 đồng, hẹn giao tại khu vực quán bar. Nguyễn Hải N lấy gói 01 túi nilông bên trong chứa 05 viên ma túy tổng hợp vào tờ giấy ăn rồi điều khiển xe máy Wave α biển kiểm soát 29B1 – 947.74 đi, nhưng đến khu vực Ngã Tư Sở (gần cây xăng đường Láng) thì xe bị hỏng N đã gọi điện thoại cho Phạm Văn Đ đến và đưa gói ma túy cho Đ bảo Đ mang đến bán cho T3 tại quán bar 21 Tràng Tiền, Hoàn Kiếm thu 2.200.000 đồng và hứa sửa xe xong sẽ cùng đi ăn và cho Đ tiền. Đồng thời N gọi điện thoại thông báo cho T3 biết Đ sẽ mang ma túy cho T3. Khi Đ điều khiển xe máy Honda Wave α màu đen BKS: 29B1 - 980.92 mang theo gói ma túy đến khu vực quan bar đưa cho T3 và đứng chờ Tuấn quay lại trả tiền. T3 nhận ma túy thông báo với H1 rồi cùng H1 đi lên bàn Vip 4 định bán cho ‘Thiết’ thì bị bắt giữ như đã nêu trên.

Ngoài ra Nguyễn Hải N khai nguồn gốc số ma túy mang bán cho T3 bị thu giữ là do được bạn tên Thắng (không rõ nhân thân) mời đi sinh nhật vào ngày 22/9/2019, tại một khách sạn trên phố Hoàng Cầu – Hà Nội. Trong buổi tiệc có sử dụng ma túy, khi mọi người ra về N thấy còn dư trên bàn có 05 viên thuốc lắc nên đã mang về nhà cất giấu. N không biết ai là người cung cấp ma túy cho mọi người dùng. Khi T3 gọi điện hỏi mua ma túy thì N đã đồng ý bán cho T3 với giá 2.200.000 đồng.

Đối với chiếc xe máy Wave α biển kiểm soát 29B1 – 980.92 thu giữ của Phạm Văn Đ là xe của ông Phạm Văn Q, sinh năm 1966; Trú tại: Số 116/612 L, G, H (là bố đẻ của Phạm Văn Đ) mua và đưa cho Đ sử dụng để đi học, ông Q không biết Đ sử dụng xe máy để đi giao dịch bán ma túy. Xét không liên quan đến hành vi phạm tội của Đ, nên Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy trên cho ông Q.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu xanh biển kiểm soát 29E1-691.75 thu giữ của Đỗ Anh T3 là tài sản của ông Đỗ Thạch S, sinh năm 1971; Trú tại: Số 42 ngõ 403 phố B, quận H, H đưa cho T3 sử dụng để đi học. Xét không liên quan đến hành vi phạm tội của T3, nên Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy trên cho ông S.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ đen bạc biển kiểm soát 29B1– 947.74 thu giữ của Nguyễn Hải N là tài sản của bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1946; Trú tại: Số 7/612/116 đường L, H, bà C cho N sử dụng xe nhưng không biết việc N sử dụng để đi giao dịch mua bán ma túy. Xét không liên quan đến hành vi phạm tội của N, nên Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy trên cho bà C.

Cơ quan điều tra đã thực hiện thu giữ điện tín đối với số điện thoại 0962034966 của đối tượng ‘‘Thiết’’, nhưng số thuê bao chưa đăng ký thông tin nên, Cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.

Về đối tượng tên ‘Thắng’ do không biết rõ nhân thân, nên Cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ nguồn gốc số ma túy.

Tại bản cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 07/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố Nguyễn Hải N, Phạm Văn Đ, Đỗ Anh T3 và Đào Minh H1 về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Hải N từ 30 đến 36 tháng tù; Xử phạt các bị cáo Phạm Văn Đ, Đỗ Anh T3, Đào Minh H1 mỗi bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù; Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ được, tịch thu toàn bộ số điện thoại thu giữ của các bị cáo và không phạt tiền bổ sung các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra - Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn Hải N, Phạm Văn Đ, Đỗ Anh T3 và Đào Minh H1 đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của những người làm chứng, vật chứng, kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án. Từ đó có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 26/9/2019, Nguyễn Hải N đưa 05 viên ma túy loại MDMA, khối lượng 2,981 gam để Phạm Văn Đ bán cho Đỗ Anh T3 tại quán bar 21 Tràng Tiền, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội. Đến khoảng 01 giờ 30 phút cùng ngày 26/9/2019, tại quán Bar 21Tràng Tiền, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, Đỗ Anh T3 và Đào Minh H1 bị bắt quả tang khi đang có hành vi tàng trữ 05 viên ma túy loại MDMA, có khối lượng 2,981 gam (là số ma túy đã mua của N) nhằm mục đích để bán cho người khác.

Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cáo trạng truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước đối với các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự công cộng. Tệ nạn ma tuý đã và đang huỷ hoại sức khoẻ, nhân cách của nhiều người, là hiểm họa, đe dọa đến cuộc sống bình yên của mọi người, mọi nhà và toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, xã hội… gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm hình sự. Đồng thời, ma túy là con đường ngắn nhất dẫn tới HIV/AIDS. Các bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ, mua bán các chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì hám lợi mà phạm tội, do đó cần phải xử phạt các bị cáo hình phạt tù cách ly với xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo đồng thời đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

Trong vụ án này, các bị cáo đều cùng thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên tính chất, mức độ tham gia thực hiện hành vi phạm tội là tương đương nhau. Tuy nhiên, xét số ma túy dùng để mua bán là của bị cáo Nguyễn Hải N, bị cáo trực tiếp giao cho bị cáo Đ mang bán cho T3, H1; nhân thân bị cáo có 01 tiền sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên mức hình phạt đối với bị cáo N cần cao hơn các bị cáo khác.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo bị truy tố theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, ngoài ra không có tình tiết tăng nặng nào theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét bị cáo đều không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên Tòa không áp dụng hình phạt tiền bổ sung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo đều đã khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải. Các bị cáo Đ, T3, H1 nhân thân đều chưa có tiền án, tiền sự là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xem xét cho các bị cáo.

[5] Về các biện pháp tư pháp: Xét thấy, đối với số ma túy thu giữ của các bị cáo + 06 sim điện thoại đã cũ cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 05 điện thoại thu giữ của các bị cáo (Gồm 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen màn hình bị nứt vỡ đã cũ; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng nhãn hiệu Iphone màu đỏ đã cũ; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng nhãn hiệu Realme màu đen đã cũ, màn hình bị nứt vỡ; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng nhãn hiệu Masstel màu đen trắng đã cũ; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu hồng đã cũ) có liên quan đến hành vi phạm tội và là tài sản của các bị cáo nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

[6] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hải N, Phạm Văn Đ, Đỗ Anh T3 Đào Minh H1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

2. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải N 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/9/2019.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/9/2019.

- Xử phạt bị cáo Đỗ Anh T3 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 26/9/2019 đến ngày 04/10/2019.

- Xử phạt bị cáo Đào Minh H1 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 26/9/2019 đến ngày 04/10/2019.

4. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

*Tịch thu tiêu huỷ:

- 01 (một) Phong bì niêm phong được dán kín các mép, trên mặt phong bì có chữ ký của giám định viên Vũ Việt Cường, điều tra viên Trần Minh Tuấn, người chứng kiến Nguyễn Hoàng A và Đỗ Anh T3, Đào Minh H1 bên trong đựng 01 (một) gói giấy màu trắng có 01 (một) túi nilong chứa 05 (năm) viên nén hình lục giác màu ghi là MDMA, tổng khối lượng 2,981 gam (PC 09 có trích mẫu 0,662 gam MDMA, còn lại 2,359 gam MDMA). (Theo kết luận giám định số 6155/KLGĐ – PC09 ngày 03/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội, kèm theo các quyết định tạm giữ, niêm phong tang vật).

- 06 (sáu) sim điện thoại đã cũ.

* Tịch thu sung quỹ nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen màn hình bị nứt vỡ đã cũ.

- 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng nhãn hiệu Iphone màu đỏ đã cũ.

- 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng nhãn hiệu Realme màu đen đã cũ, màn hình bị nứt vỡ.

- 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng nhãn hiệu Masstel màu đen trắng đã cũ.

- 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu hồng (Tại thời điểm bàn giao các máy điện thoại không mở được máy để kiểm tra, chất lượng hiện trạng không rõ).

Số vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận Hoàn Kiếm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/3/2020.

5 . Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Các bị cáo Nguyễn Hải N, Phạm Văn Đ, Đỗ Anh T3 và Đào Minh H1, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2020/HS-ST ngày 18/03/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;