Bản án 38/2020/HNGĐ-ST ngày 27/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAM RANH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 38/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 27 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Cam Ranh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 81/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2020 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2020/QĐST - HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2020. Giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Kiều Tr - Sinh năm 1977

Địa chỉ: Thôn Tân H, xã Cam Phước Đ, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Đ - Sinh năm: 1972

Địa chỉ: Thôn Tân H, xã Cam Phước Đ, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

Có mặt tại phiên tòa.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng chính sách xã hội.

Địa chỉ: Tòa nhà CC5, khu bán đảo Linh Đàm, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật: Ông Dương Quyết Th - Chức vụ: Tổng giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Phan Phước Th

Chức vụ: Giám đốc phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội Cam Ranh (Theo quyết định về việc ủy quyền tham gia tố tụng và thi hành án số 7300/QĐ-NHCS, ngày 19/9/2019 của Ngân hàng chính sách xã hội).

Xin vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện gửi đến Tòa án ngày 22/4/2020, bản tự khai ngày 20/5/2020, các tài liệu trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Lê Thị Kiều Tr trình bày: Nguyên đơn và bị đơn ông Nguyễn Đ tự tìm hiểu và kết hôn năm 2002 trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và được UBND xã Cam Phước Đ cấp giấy Chứng nhận kết hôn số 07/2002, Quyển số 01 ngày 27/02/2002.

Quá trình chung sống: Thời gian đầu chung sống vợ chồng sống chung có hạnh phúc và có với nhau 02 đứa con chung. Tuy nhiên, kể từ năm 2019, nguyên đơn đi làm công nhân, mỗi tối về đến nhà bị đơn cứ kiếm chuyện đánh đập, chửi bới nguyên đơn đã nhiều lần bỏ qua, khuyên nhủ chồng mong muốn giữ hạnh phúc gia đình nhưng bị đơn vẫn không nghe. Vì vậy, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10/2019 cho đến nay. Từ đó, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã cuộc sống gia đình luôn căng thẳng, mệt mỏi. Mặc dù nguyên đơn đã nhiều lần khuyên nhủ bị đơn thay đổi cách sống để cùng tôi nuôi dưỡng con nhưng bị đơn vẫn không hề thay đổi, gia đình thân thích 02 bên có khuyên ngăn nhưng bị đơn vẫn không có gì chuyển biến. Do vậy, bản thân nguyên đơn nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, nguyên đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh giải quyết cho nguyên đơn được ly hôn với bị đơn ông Nguyễn Đ.

Về con chung: Nguyên đơn và bị đơn ông Nguyễn Đ có 02 con chung là Nguyễn Thị Lệ Q, sinh ngày 08/9/2002 và Nguyễn Hữu Ch, sinh ngày 02/3/2005. Nếu ly hôn nguyên đơn đề nghị Tòa án giao con cho nguyên đơn được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Đ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Nguyên đơn và bị đơn có nợ Ngân hành chính sách xã hội tính đến ngày 03/6/2020 còn dư số nợ: 6.597.767 đồng; trong đó nợ gốc: 6.500.000 đồng, nợ tiền lãi 97.767 đồng, Trước khi mở phiên tòa hôm nay, vào ngày 25/8/2020 bị đơn ông Nguyễn Đ đã trả hết nợ cho ngân hàng chính sách xã hội nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Nguyễn Đ: Ngày 19/5/2020 lập biên bản lấy lời khai theo yêu cầu của bị đơn, lời trình bày tại biên bản hòa giải và tại phiên tòa hôm nay bị đơn ông Nguyễn Đ trình bày: Bị đơn và nguyên đơn bà Lê Thị Kiều Tr tự nguyện tìm hiểu và tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2001, có đăng ký kết hôn vào năm 2002 đúng như nguyên đơn trình bày. Trong quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng sống bình thường đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ bị đơn đi làm ăn xa nên bị đơn không thích dẫn đến việc hai vợ chồng kình cãi, lời qua tiếng lại nên bị đơn có đánh nguyên đơn một lần vài bạt tai. Từ tháng 10 năm 2019 nguyên đơn về nhà mẹ ruột tại Cam Thịnh Đ sinh sống cho đến nay, bị đơn đã đến yêu cầu nguyên đơn về nhà ở nhưng không về. Nay nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn bị đơn yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

Về con chung: Bị đơn và nguyên đơn có 02 con chung là Nguyễn Thị Lệ Q, sinh ngày 08/9/2002 và Nguyễn Hữu Ch, sinh ngày 02/3/2005. Trước đây bị đơn chỉ yêu cầu Tòa án giao con chung là Nguyễn Thị Lệ Q, sinh ngày 08/9/2002 cho bị đơn chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu. Tại phiên tòa hôm nay, nếu ly hôn bị đơn đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo nguyện vọng của con chung bị đơn không có ý kiến.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bị đơn và nguyên đơn có nợ Ngân hành chính sách xã hội tính đến ngày 03/6/2020 còn dư số nợ: 6.597.767 đồng; trong đó nợ gốc: 6.500.000 đồng, nợ tiền lãi 97.767 đồng, ngày 25/8/2020, bị đơn đã trả hết số nợ trên cho ngân hàng chính sách nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng chính sách xã hội: ý kiến đại diện Ngân hàng chính sách xã hội: Ngày 11/6/2010 ông Nguyễn Đoàn và Ngân hàng chính sách xã hội thành phố Cam Ranh có ký khế ước vay vốn số tiền là 8.000.000 đồng, kỳ hạn trả nợ 6 tháng/lần, lãi suất là 0,9%/tháng chương trình nước sạch vệ sinh môi trường, người thừa kế là chị Lê Thị Kiều Tr. Tính đến ngày 03/6/2020 còn dư số nợ: 6.597.767 đồng; trong đó nợ gốc: 6.500.000 đồng, nợ tiền lãi 97.767 đồng. Tại phiên tòa hôm nay xin giải quyết vắng mặt và có văn bản trình bày ý kiến là ông Nguyễn Đ đã trả hết số nợ trên vào ngày 25/8/2020 nên không yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh giải quyết phần nợ trong vụ án ly hôn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cam Ranh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc bà Lê Thị Kiều Tr xin ly hôn và nuôi con chung đối với ông Nguyễn Đ.

Về nợ chung: Ông Nguyễn Đ đã trả hết số tiền 6.597.767 đồng cho Ngân hàng chính sách xã hội nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa; Ý kiến của nguyên đơn, ý kiến đại diện Viện kiểm sát. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 26/8/2020 Ngân hàng chính sách xã hội có đơn xin xét xử vắng mặt và có ý kiến trong đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết số nợ của hộ ông Nguyễn Đ và bà Lê Thị Kiều Tr vì hộ ông Đ bà Tr đã trả xong số tiền nợ gốc và nợ lãi cho Ngân hàng chính sách xã hội vào ngày 25/8/2020. (Có phiếu giao dịch và phiếu thu kèm theo). Căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng vặt đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Kiều Tr và ông Nguyễn Đ tự nguyện kết hôn năm 2002, có đăng ký kết hôn và được UBND xã Cam Phước Đ được cấp giấy Chứng nhận kết hôn số 07/2002, Quyển số 01 ngày 27/02/2002. Xác định đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[3] Quá trình chung sống: Trong quá trình chung sống giữa bà Lê Thị Kiều Tr và ông Nguyễn Đ thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Bị đơn không quan tâm đến vợ con, thường xuyên xúc phạm nguyên đơn, cuộc sống gia đình luôn luôn căng thẳng, nguyên đơn đã cố gắng hàn gắn tình cảm nhưng bị đơn vẫn không thay đổi, nguyên đơn khẳng định tình cảm vợ chồng không còn; Nguyên đơn và bị đơn đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2019 cho đến nay. Tại phiên tòa, bị đơn cho rằng tình cảm giữa hai vợ chồng vẫn còn, sự việc xảy ra ngày hôm nay là do ông không muốn cho vợ đi làm ăn xa nhà, vợ cãi lại nên có đánh một lần từ đó nguyên đơn bỏ nhà và đưa hai con về ở bên ngoại ở chứ sự việc không có gì mâu thuẫn trầm trọng như nguyên đơn nói nên bị đơn mong Hội đồng xét xử xem xét về vấn đề hôn nhân của bị đơn đối với nguyên đơn. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn của bà Tr và ông Đ đã đến mức trầm trọng, thực tế đã sống ly thân từ tháng 10/2019 đến nay không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, có kéo dài để sống chung thì mục đích hôn nhân cũng không đạt được. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn đối với bị đơn.

[4] Về con chung: Nguyên đơn, bị đơn xác định có 02 (hai) con chung là Nguyễn Thị Lệ Q, sinh ngày 08/9/2002 và Nguyễn Hữu Ch, sinh ngày 02/3/2005. Xét thấy, sau khi ly hôn việc giao con chưa thành niên cho người nào nuôi dưỡng, giáo dục là nhằm mục đích giúp con chưa thành niên phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Tại phiên tòa, nguyên đơn chứng minh được có công ăn, việc làm ổn định và có nơi ở đảm bảo cho cuộc sống của cháu Lệ Q và Hữu Ch, nay nguyên đơn mong muốn được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến tuổi trưởng thành. Ý kiến bị đơn yêu cầu Hội đồng xét xử giải quyết theo nguyện vọng của các con.

Xét công việc, hoàn cảnh thực tế của bà Lê Thị Kiều Tr có đủ điều kiện chăm sóc 02 con chung và phù hợp với quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử chấp nhận giao cho nguyên đơn được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thị Lệ Q, sinh ngày 08/9/2002 và Nguyễn Hữu Ch, sinh ngày 02/3/2005 đến tuổi trưởng thành, ông Nguyễn Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn vì quyền lợi của con, các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con; Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

[5] Về tài sản chung: Bà Lê Thị Kiều Tr và ông Nguyễn Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.

[6] Về nợ chung: Trước khi mở phiên tòa ông Nguyễn Đ đã trả hết số tiền gốc và tiền lãi cho Ngân hàng chính sách xã hội vào ngày 25/8/2020 và Ngân hàng chính sách xã hội có văn bản gửi tòa án ngày 26/8/2020 không yêu cầu giải quyết số nợ trên nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về án phí: Bà Lê Thị Kiều Tr phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự và Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận cho bà Lê Thị Kiều Tr được ly hôn với ông Nguyễn Đ.

2. Về con chung: Giao các cháu Nguyễn Thị Lệ Q, sinh ngày 08/9/2002 và Nguyễn Hữu Ch, sinh ngày 02/3/2005 cho bà Lê Thị Kiều Tr trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành; Ông Nguyễn Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn vì quyền lợi của con, các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con; Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Bà Lê Thị Kiều Tr phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng tại biên lai số AA/2018/0000980 ngày 05 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cam Ranh. Như vậy, bà Lê Thị Kiều Tr đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

* Quy định: Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2020/HNGĐ-ST ngày 27/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:38/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cam Ranh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;