Bản án 38/2020/HNGĐ-ST ngày 12/08/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 38/2020/HNGĐ-ST NGÀY 12/08/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái , tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sư thụ lý số 194/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2020 về việc: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2020 và Thông báo mở lại phiên tòa số 37/TB-XX ngày 28/7/2020 giữa:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Xuân T, sinh năm 1987. Vắng mặt. Địa chỉ: Tổ dân phố H, phường H, thành phố Y, tỉnh Yên Bái.

Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1987. Vắng mặt. Địa chỉ: Tổ dân phố P, phường N, thành phố Y, tỉnh Yên Bái.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện; bản tự khai; các tài liệu có trong hồ sơ nguyên đơn chị Vũ Thị Xuân T trình bày:

Chị Vũ Thị Xuân T và anh Nguyễn Hoàng A đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Y, tỉnh Yên Bái vào ngày 30/6/2014 trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do tính tình không hợp, vợ chồng không thể chung sống cùng nhau, chị T và anh Nguyễn Hoàng A đã sống ly thân từ tháng 6/2019 đến nay không còn quan tâm đến nhau. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng đã hết, chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng A.

Về con chung: Chị T và anh Nguyễn Hoàng A có 01 con chung là cháu: Nguyễn Minh K, sinh ngày 07/5/2015, khi ly hôn chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu K và không yêu cầu anh Nguyễn Hoàng A cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản: Chị T không yêu cầu Toà án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bị đơn anh Nguyễn Hoàng A vắng mặt, không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Hoàng A có hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố H, phường H, thành phố Y, tỉnh Yên Bái. Đây là vụ án tranh chấp về “Ly hôn, nuôi con chung” nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

Nguyên đơn chị Vũ Thị Xuân T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Nguyễn Hoàng A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do. Căn cứ khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2]. Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập bị đơn anh Nguyễn Hoàng A nhiều lần nhưng anh Nguyễn Hoàng A đều vắng mặt không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Vũ Thị Xuân T. Theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “ Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Do đó; Hội đồng xét xử lấy yêu cầu khởi kiện, lời trình bày và các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp làm chứng cứ giải quyết vụ án.

[3]. Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Xuân T kết hôn với anh Nguyễn Hoàng A trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống chị T và anh Nguyễn Hoàng A xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm. Hiện chị Thu và anh Nguyễn Hoàng A đã sống ly thân từ tháng 6 năm 2019 đến nay không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng chị T và anh Nguyễn Hoàng A đã trầm trọng, đời sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của chị T là có cơ sở chấp nhận.

[3]. Về con chung: Chị T và anh Nguyễn Hoàng A có 1 con chung là cháu Nguyễn Minh K, sinh ngày 07/5/2015, khi ly hôn chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu K và không yêu cầu anh Nguyễn Hoàng A cấp dưỡng nuôi con.

Hôi đông xet xư xet thây: Nguyện vọng của chị T là chính đáng, song việc giao con cho ai nuôi phải xem xét về quyền lợi của con chưa thành niên. Hiện cháu Kg còn nhỏ, đang ở ổn định với mẹ là chị Vũ Thị Xuân T. Anh Nguyễn Hoàng A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng cố tình vắng mặt không có lý do cũng không có ý kiến gì về việc nuôi con. Do vậy, nên giao cháu Khang cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp và anh Nguyễn Hoàng A không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4]. Về chia tài sản: Chị T và anh Nguyễn Hoàng A không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí và quyền kháng cáo: Chị T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Chị T, anh Nguyễn Hoàng A có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về “Án phí, lệ phí Tòa án”.

1. Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Xuân T được ly hôn anh Nguyễn Hoàng A.

2. Về nuôi con chung: Giao cho chị Vũ Thị Xuân T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Minh K, sinh ngày 07/5/2015 cho đến khi cháu Khang đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Hoàng A không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị Xuân T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0006434 ngày 17/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái (Chị Thu đã nộp đủ tiền án phí).

4. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị Xuân T và anh Nguyễn Hoàng A được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2020/HNGĐ-ST ngày 12/08/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:38/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;