Bản án 38/2019/HNGĐ-ST ngày 09/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 38/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 09 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 143/2019/TLST-HNGĐ ngày 07/6/2019 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2019/QĐXX-ST ngày 24/7/2019 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1994.

Nơi ĐKHKTT: Thôn Ch, xã C, huyện H, tỉnh Thái Bình.

Chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

2. Bị đơn: Anh Trương Văn Đ, sinh năm 1988.

Nơi ĐKHKTT: Thôn Ch, xã C, huyện H, tỉnh Thái Bình.

Anh Đ hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam

(Chị V, anh Đ vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị V trình bày: Chị và anh Trương Văn Đ kết hôn với nhau là tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện H, tỉnh Thái Bình ngày 19/7/2013. Sau khi kết hôn vợ chồng chuyển vào Miền Nam làm ăn nhưng do anh Đ không chịu tu chí làm ăn mà nghe theo bạn bè rủ rê nên đã nghiện ma túy. Mặc dù chị và gia đình đã động viên giúp anh Đ cai nghiện nhiều lần nhưng không thành. Từ đầu năm 2015 cho đến nay chị và anh Đ sống ly thân. Ngày 17/4/2019 anh Đ bị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và hiện anh Đ đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị V đề nghị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trương Văn Đ.

Về con chung: Chị và anh Đ có một con chung là Trương Thị Quỳnh T, sinh ngày 31/10/2013. Sau khi ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản chung, công nợ: Chị và anh Đ không có tài sản chung, không nợ ai và không cho ai vay nợ. Chị V không đề nghị Tòa án gải quyết về tài sản chung, công nợ.

Tại biên bản lấy lời khai và đơn xin xét xử vắng mặt ngày 10/6/2019, bị đơn là anh Trương Văn Đ trình bày: Anh và chị V tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau ngày 19/7/2013 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện H. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì mâu thuẫn do tính tình không hợp và anh không chịu tu chí làm ăn, hiện tại anh đang chấp hành án phạt tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Nay chị V có đơn xin ly hôn anh, quan điểm của anh cũng đồng ý ly hôn với chị V.

Về con chung: Anh và chị V có một con chung Trương Thị Quỳnh T, sinh ngày 31/10/2013. Sau khi ly hôn anh cũng đồng ý để con chung cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, anh không có ý kiến gì.

Về tài sản chung, công nợ: Anh Đ không đề nghị Tòa án giải quyết.

Ti phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật Tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, các văn bản tố tụng được tống đạt đầy đủ, đúng thời hạn cho các đương sự.

- Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị xử cho chị Nguyễn Thị V được ly hôn với anh Trương Văn Đ; về con chung: Giao con chung Trương Thị Quỳnh T, sinh ngày 31/10/2013 cho chị Nguyễn Thị V trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết; về tài sản chung, công nợ: Không giải quyết; về án phí: Chị Nguyễn Thị V phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa cũng như phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Bị đơn là anh Trương Văn Đ có hộ khẩu thường trú tại xã Nam Cường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Theo quy định tại điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình” giữa chị V và anh Đ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải. Chị V, anh Đ vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị V và anh Trương Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình. Tại thời điểm kết hôn chị V, anh Đ đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Đó là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị V và anh Đ chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do anh Đ không chịu tu chí làm ăn, vợ chồng không còn tình yêu thương đối với nhau, cả chị V và anh Đ đều xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn. Như vậy hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị V, giải quyết cho chị V được ly hôn với anhĐ là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị V và anh Đ có một con chung là Trương Thị Quỳnh T, sinh ngày 31/10/2013. Nguyện vọng của chị V xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Quan điểm của anh Đ cũng đồng ý để con chung cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện của chị V và anh Đ, giao con chung Trương Thị Quỳnh T cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục . Việc cấp dưỡng nuôi con chung các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[2.3]. Về tài sản chung, công nợ: Không giải quyết.

[2.4]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[2.5]. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị V và anh Trương Văn Đ được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a, khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị V được ly hôn với anh Trương Văn Đ.

2/ Về con chung: Giao con chung Trương Thị Quỳnh T, sinh ngày 31/10/2013 cho chị Nguyễn Thị V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết.

Anh Trương Văn Đ có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3/ Về tài sản chung, công nợ: Không giải quyết.

4/ Về án phí: Chị Nguyễn Thị V phải nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) chị V đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải theo biên lai thu số 0009113 ngày 07/6/2019.

5/ Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2019/HNGĐ-ST ngày 09/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:38/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;