Bản án 38/2018/HSST ngày 02/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG LÔ, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 38/2018/HSST NGÀY 02/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 02 tháng 10 năm 2018 tại hội trường Uỷ ban nhân dân xã Tứ Yên, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 34/2018/HSST ngày 17/8/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2018/QĐXXST-HS ngày 20/9/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn C, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1995; Nơi cư trú: thôn L, xã T, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Đỗ Thị T, sinh năm 1968; vợ, con: chưa có; tiền án:không, tiền sự: có 02 tiền sự: Tại Quyết định số 05/2016/QĐ - TA ngày 14/4/2016 của Tòa án nhân dân huyện Sông Lô về việc áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Văn C. Thời hạn cai nghiện bắt buộc là 18 tháng. Đến ngày 18/9/2017, Nguyễn Văn C chấp hành xong thời hạn cai nghiện trở về địa phương.

Ngày 22/12/2017 có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy bị Công an huyện Sông Lô ra Quyết định xử phạt hành chính số 89/QĐ-XPVPHC ngày 15/03/2018 xử phạt tiền 1.500.000đ. Ngày 19/4/2018, C nộp phạt xong.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/5/2018. Hiện đang bị tạm giam tại

Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt);

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Đỗ Mạnh C1, sinh năm 1989; Nơi cư trú: thôn Y, xã T, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 06/05/2018, Nguyễn Văn C đang ở nhà tại thôn L, xã T thì lên cơn thèm chất ma túy, C đi bộ sang nhà anh Đỗ Mạnh C1 ở thôn Y, xã T mượn xe mô tô nhãn hiệu SYM Star, BKS:19H9-2600 và gọi điện thoại cho người đàn ông tên C2 hỏi mua 200.000đ tiền ma túy Heroine để sử dụng cho bản thân. C2 đồng ý và hẹn Công đến khu vực đường đôi thuộc thị trấn Lập Thạch. Sau đó, C điều khiển xe mô tô BKS: 19H9-2600 đến khu vực thị trấn L, huyện L gặp và mua của C2 01 gói ma túy Heroine với giá 200.000đ. C cầm gói ma túy đúc vào túi quần phía trước bên phải đang mặc điều khiển xe mô tô đi về khu vực nghĩa trang thôn Đồng Quét thuộc thôn Y, xã T tìm chỗ để sử dụng. Khi C về đến cổng vào nghĩa trang Đồng Quét thì bị lực lượng Công an huyện Sông Lô phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại túi quần phía trước bên phải đang mặc của C 01 gói nhỏ ngoài gói bằng giấy vở học sinh bên trong chứa chất bột màu trắng niêm phong trong bì thư ký hiệu A1. C khai nhận đây là ma túy Heroine vừa mua được để sử dụng cho bản thân.

Tại bản kết luận giám định số: 592/KLGĐ ngày 10/05/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy có khối lượng là 0,0626g (không phảy không sáu hai sáu gam, không kể bao bì), loại Heroine.

Quá trình điều tra làm rõ: Ngày 22/12/2017, Nguyễn Văn C có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy bị Công an huyện Sông Lô ra Quyết định xử phạt hành chính số 89/QĐ-XPVPHC ngày 15/03/2018 xử phạt tiền 1.500.000đ Công đã thi hành xong nhưng hiện chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Đối với người đàn ông tên C2 bán ma túy cho Công, Công không biết họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người đàn ông này ở đâu nên Cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được.

Về vật chứng thu giữ:

- Cơ quan điều tra thu giữ 0,0626 gam ma túy Heroine. Cơ quan giám định hoàn lại mẫu vật 0,000 gam và toàn bộ bao gói.

- 02 chiếc xi lanh, 01 lọ nước cất.

- 02 chiếc điện thoại di động thu giữ của C. Trong đó 01 chiếc điện thoại di động đã cũ, bị hỏng không rõ nhãn hiệu; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIETTEL vỏ màu vàng bàn phím bấm, đã qua sử dụng.

- 01 xe mô tô BKS 19H9-2600, Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Đỗ Mạnh C1. Anh không biết C sử dụng chiếc xe mô tô này làm phương tiện để đi mua ma túy.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Văn C đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 35/CT - VKS ngày 15/8/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô đã truy tố Nguyễn Văn C về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô luận tội đối với bị cáo Nguyễn Văn C giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06/5/2018. Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, ăn năn hối hận, bị cáo nhất trí với bản luận tội của đại điện viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Sông Lô, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, vật chứng thu giữ được cùng với các tài liệu chứng cứ khác thể hiện trong hồ sơ vụ án và phù hợp với nội dung Cáo trạng đã được đại diện Viện kiểm sát công bố tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 06/05/2018, tại khu vực cổng nghĩa trang Đồng Quét, thôn Y, xã Tứ Yên, Công an huyện Sông Lô phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn C đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy Heroine có khối lượng 0,0626 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân cùng toàn bộ vật chứng có liên quan. Tuy khối lượng ma túy Công tàng trữ dưới 01 gam nhưng ngày 15/03/2018, Nguyễn Văn C bị Công an huyện Sông Lô ra Quyết định xử phạt hành chính số 89/QĐ-XPVPHC xử phạt tiền 1.500.000đ về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy ngày 22/12/2017. Công đã thi hành xong ngày 19/04/2018 nhưng hiện chưa hết thời hiệu được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Hội đồng xét xử khẳng định: Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn C đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” , tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này…”

[3] Hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, đi ngược lại cuộc đấu tranh quyết liệt của Nhà nước và nhân dân ta nhằm đẩy lùi và loại trừ tội phạm ma tuý ra khỏi đời sống xã hội. Ma tuý không những đã gây ra những tác hại khôn lường cho sức khoẻ, trí tuệ, nhân cách và nòi giống con người, mà  còn là nguồn gốc phát sinh hàng loạt các loại tội phạm như tội trộm cắp,cướp giật, giết người và nhiều loại tội phạm khác … Bị cáo bị nghiện ma túy từ năm 2014 đến năm 2016 đã cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc. Sau khi chấp hành xong thời hạn cai nghiện bị cáo không chịu rèn luyện, tu dưỡng bản thân nên trong thời gian ngắn đã tái nghiện và chỉ vì muốn thoả mãn cơn nghiện mà bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo với mức án thật nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận nên được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo C là người nghiện ma túy, không có thu nhập, công việc ổn định cũng như không có tài sản nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[6] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Cơ quan giám định hoàn lại mẫu vật 0,000 gam và toàn bộ bao gói cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 02 chiếc xi lanh, 01 lọ nước cất là các dụng cụ C sử dụng trái phép chất ma túy cần tịch thu tiêu hủy. 02 chiếc điện thoại di động thu giữ của C. Trong đó 01 chiếc điện thoại di động đã cũ, bị hỏng không rõ nhãn hiệu không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho C; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIETTEL vỏ màu vàng bàn phím bấm, đã qua sử dụng. C sử dụng liên lạc để mua trái phép chất ma túy cần tịch thu bán xung quỹ nhà nước. 01 xe mô tô BKS 19H9-2600 tạm giữ của C. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Đỗ Mạnh C1. Anh C1 không biết C sử dụng chiếc xe mô tô này làm phương tiện để đi mua ma túy. Do đó cần xem xét trả lại cho anh Đỗ Mạnh C1.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 02 (hai) năm 06 sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06/5/2018.

2. Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ bao gói do cơ quan giám định hoàn lại, 02 chiếc xi lanh và 01 lọ nước cất. Trả lại cho C 01 chiếc điện thoại di động đã cũ, bị hỏng không rõ nhãn hiệu. Tịch thu bán xung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động của C nhãn hiệu VIETTEL vỏ màu vàng bàn phím bấm, đã qua sử dụng. Trả lại 01 xe mô tô BKS 19H9-2600 cho anh Đỗ Mạnh C1. (Có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/8/2018 giữa Công an huyện Sông Lô và Chi cục thi hành án dân sự huyện Sông Lô).

3. Án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000đ (bằng chữ hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết tại Uỷ ban nhân dân nơi cư trú của người vắng mặt

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2018/HSST ngày 02/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:38/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Lô - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;