Bản án 38/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 38/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 215/2018/TLST- HNGĐ ngày 28/8/2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/11/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2018/QĐST-HNGĐ ngày 16/11/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thành T, sinh năm 1986

Địa chỉ: Thôn K, xã S, huyện B, tỉnh Lào Cai

Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Nông Thị Đ, sinh năm 1991

Địa chỉ: Thôn K, xã S, huyện B, tỉnh Lào Cai

Vắng mặt lần 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23/8/2018, bản tự khai ngày 28/8/2018 và trong quá trình xét xử anh Nguyễn Thành T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nông Thị Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 01/8/2014 tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện B, tỉnh Lào Cai. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi nhau, cuộc sống chung không hạnh phúc. Khi mâu thuẫn xẩy ra vợ chồng anh đã nhiều lần nói chuyện với nhau để cùng khắc phục mâu thuẫn và gia đình hai bên cũng tham gia khuyên bảo, hòa giải nhiều lần nhưng anh chị vẫn không khắc phục được mâu thuẫn, mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Do đó tháng 11 năm 2017 vợ chồng anh đã tự sống ly thân, trong thời gian sống ly thân hai bên không còn quan tâm thăm hỏi đến nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể khắc phục được anh đề nghị Toà án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nông Thị Đ.

Về con chung: Anh Nguyễn Thành T trình bày trong thời gian chung sống vợ chồng anh có một con chung là cháu Nguyễn Trung Đ, sinh ngày 24/11/2015 cháu khỏe mạnh và phát triển bình thường, hiện cháu đang ở cùng anh. Khi ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Trung Đ, anh không yêu cầu chị Nông Thị Đ cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung và công nợ chung: Anh Nguyễn Thành T trình bày trong thời gian chung sống vợ chồng anh không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với chị Nông Thị Đ, trong quá trình giải quyết vụ án vụ án, chị vắng mặt không có lý do nên Tòa án đã tiến hành xác minh và niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng chị Đ vẫn không có văn bản trả lời ý kiến và không có mặt theo giấy triệu tập.

Về việc cung cấp tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ các tài liệu chứng cứ về nhân thân, địa chỉ thường trú, chứng cứ chứng minh việc có đăng ký kết hôn và có con chung, chứng cứ chứng minh mâu thuẫn của vợ chồng, chứng cứ chứng minh về thu nhập cá nhân. Bị đơn không cung cấp tài liệu chứng cứ gì.

Đối với vụ án này Toà án không tiến hành hoà giải được về quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng chăm sóc con chung. Vì chị Nông Thị Đ đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do nên Toà án đã tiến hành lập biên bản về việc chị Nông Thị Đ vắng mặt để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay anh Nguyễn Thành T vẫn giữ nguyên yêu cầu và nguyện vọng của mình, còn chị Nông Thị Đ đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Như vậy cần xét xử vắng mặt chị là phù hợp với Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai đã xác định: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đều tuân theo trình tự pháp luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn không thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện của anh Nguyễn Thành T.

Xử cho anh Nguyễn Thành T ly hôn chị Nông Thị Đ;

Xử giao cháu Nguyễn Trung Đ, sinh ngày 24/11/2015 cho anh Nguyễn Thành T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Chị Nông Thị Đ không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung;

Tuyên nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo cho các đương sự theo đúng quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về áp dụng pháp luật tố tụng: Anh Nguyễn Thành T có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai giải quyết vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” với chị Nông Thị Đ (địa chỉ: Thôn K, xã S, huyện B, tỉnh Lào Cai). Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Thành T và chị Nông Thị Đ kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 01/8/2014 tại UBND xã S, huyện B, tỉnh Lào Cai. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau kết hôn vợ chồng anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm2017 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo trình bày của anh T đã được chính quyền địa phương xác nhận là đúng sự thật. Tại phiên toà hôm nay anh Nguyễn Thành T vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với chị Nông Thị Đ. Đối với chị Nông Thị Đ vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng chị Đ không có mặt và cũng không có văn bản trả lời. Xét thấy mâu thuẫn của vợ chồng anh T chị Đ đã thực sự trầm trọng, anh chị đã sống ly thân không quan tâm đến nhau từ đầu năm 2017 đến nay, nên việc anh T xin ly hôn chị Đ là có căn cứ. Vì vậy Hội đồng xét xử cần áp dụng Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho anh Nguyễn Thành T ly hôn chị Nông Thị Đ.

 [3] Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có một con chung cháu Nguyễn Trung Đ, sinh ngày 24/11/2015. Cháu khỏe mạnh, phát triển bình thường, hiện đang ở cùng anh T. Tại phiên tòa hôm nay anh T vẫn giữ nguyên yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Trung Đ, anh không yêu cầu chị Đ cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của anh T. Hội đồng xét xử xét thấy cháu Nguyễn Trung Đ đang ở cùng anh T, anh T đã cung cấp được chứng cứ là xác nhận của chính quyền địa phương về việc anh đang làm thuê tại xưởng gỗ bóc thu nhập bình quân là 6.000.000đ/tháng. Chị Nông Thị Đ không cung cấp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ nào. Vì vậy để đảm bảo cuộc sống ổn định của cháu Nguyễn Trung Đ, xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình giao cháu Nguyễn Trung Đ cho anh Nguyễn Thành T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung, anh Nguyễn Thành T không yêu cầu về nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

 [4] Về tài sản chung và công nợ chung: Trong quá trình Tòa án giải quyết cũng như tại phiên toà hôm nay anh Nguyễn Thành T xác nhận vợ chồng anh không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

 [5] Về án phí: Anh Nguyễn Thành T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử cho anh Nguyễn Thành T ly hôn chị Nông Thị Đ

2.Về con chung: Xử giao cháu Nguyễn Trung Đ, sinh ngày 24/11/2015 cho anh Nguyễn Thành T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị Nông Thị Đ không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Sau khi ly hôn chị Nông Thị Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Thành T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà anh đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai theo biên lai số 0007714 ngày 28/8/2018. Anh Nguyễn Thành T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết bản án.

 “Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:38/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;