Bản án 38/2018/HNGĐ-ST ngày 02/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 38/2018/HNGĐ-ST NGÀY 02/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 02 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 87/2018/TLST - HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2018/QĐXXST - HNGĐ ngày 13/7/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lê Văn C, sinh năm 1980;

Địa chỉ: xóm 5, xã B, huyện G1, tỉnh Nam Định.

- Bị đơn: Chị Đặng Thị D, sinh năm 1983;

Địa chỉ: thôn G, xã B1, huyện K, tỉnh Thái Bình. Anh C và chị D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/5/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơnanh Lê Văn C trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: anh và chị Đặng Thị D tự nguyện kết hôn cóđăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện G1, tỉnh Nam Định vào ngày21/01/2005. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xóm 5 xã B huyện G1 tỉnh Nam Định và sinh được 02 con chung. Trong thời gian chung sống đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do nghi ngờ chị D có quan hệ với người đàn ông khác nên vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn. Từ Tết nguyên đán năm 2009 chị D đã tự ý bỏ về nhà bố đẻ tại xã B1 huyện K sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Trong thời gian chị D về nhà bố đẻ sống anh cũng đã nhiều lần sang nhà bố đẻ chị D nói chuyện và khuyên chị D về vợ chồng chung sống cùng nhau nuôi dạy các con anh nhưng chị D không về. Nay anh C thấy vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị D.

- Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Lê Hoàng L, sinh ngày 11/3/2006 đang do anh C nuôi dưỡng và Lê Phương T sinh ngày 13/8/2009 đang do chị D nuôi dưỡng. Ly hôn anh C có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu L và chị D tiếp tục nuôi dưỡng cháu T, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Cháu L có đơn đề nghị xin được ở với anh C và cháu T có đơn đề nghị được tiếp tục ở với chị D.

- Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: không có.

Bị đơn là chị Đặng Thị D: vắng mặt tại địa phương nên Tòa án không lấy được lời khai.

- Qua xác minh tại UBND xã B1 huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình ngày26/6/2018 cung cấp cho biết: chị Đặng Thị D và anh Lê Văn C có đến UBND xã B1 làm thủ tục để đi đăng ký kết hôn tại UBND xã B huyện G1 tỉnh Nam Định vào năm 2005. Sau khi kết hôn thì chị D về quê anh C ở xã B huyện G1 tỉnh Nam Định sinh sống. Đến khoảng năm 2009 thì chị D về nhà bố đẻ là ông Đặng Quang L sinh sống và sinh con Lê Phương T, nguyên nhân chị D bỏ về nhà bố đẻ thì địa phương không nắm được. Hiện nay chị D vẵn đăng ký hộ khẩu tại thôn G xã B1, đi làm ăn xa, thỉnh thoảng có vê nhà và hàng tháng vẫn gửi tiền về để ông L nuôi cháu T. Nay anh C xin ly hôn chị D, quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Theo người làm chứng là ông Đặng Quang L, nơi cư trú tại: thôn G, xã B1, huyện K tỉnh Thái Bình (là bố chị Đặng Thị D) cho biết: Anh C và chị D kết hôn với nhau năm 2005, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện G1, tỉnh Nam Định. Sau khi kết hôn vợ chồng chị D chung sống cùng nhau tại gia đình anh C. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên chị D đã bỏ về nhà ông sống và sinh con thứ hai cách đây đã 10 năm rồi, còn nguyên ngân mâu thuẫn là do đâu thì ông không biết. Vợ chồng chị D ly thân đã 10 năm nay, không quan tâm đến nhau. Nếu anh chị ấy mới chỉ ly thân 01 đến 02 năm thì gia đình còn cố gắng hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, ông đề nghị Tòa án giải quyết đơn ly hôn của anh C theo quy định của pháp luật. Nay anh C xin ly hôn chị D thì chị D cũng như gia đình ông không đồng ý vì giáo lý của giáo hội thiên chúa giáo không cho phép, việc ly hôn là việc của anh C. Vợ chồng anh C và chị D có 02 con chung là Lê Hoàng L, sinh ngày 11/3/2006 đang do anh C nuôi dưỡng và Lê Phương T, sinh ngày 13/8/2009 đang do chị D nuôi dưỡng. Trường hợp ly hôn thì mỗi người nuôi một con, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Vợ chồng anh C chị D không có tài sản, không vay nợ ai và không cho ai vay nợ.

Tòa án đã giao Thông báo thụ lý vụ án; bản sao đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ do anh C cung cấp; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho ông Đặng Quang L để ông Lịch giao và thông tin ngay cho chị D. Ông L đã nhận các văn bản tố tụng nêu trên của Tòa án và cam kết thông tin lại ngay nội dung các văn bản trên cho chị D. Sau khi gia đình ông thông tin về việc Tòa án báo chị D đến trụ sở để giải quyết việc anh C xin ly hôn nhưng chị D nói lại với gia đình ông là do công việc không thể về Tòa án được nên đề nghị Tòa án giải quyết treo trình tự của pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn, đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không tham gia tố tụng là không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận cho anh C được ly hôn chị D.

Về quan hệ con chung: Áp dụng điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: giao cháu Lê Hoàng L sinh ngày 11/3/2006 cho anh C tiếp tục nuôi dưỡng và giao cháu Lê Phương T cho chị D tiếp tục nuôi dưỡng, anh C và chị D không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: không có.

Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, anh C phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1]- Về thủ tục tố tụng: Xét thấy, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị đơn. Nguyên đơn,bị đơn đều có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2]- Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ , vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [3]- Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, anh Lê Văn C và chị Đặng Thị D tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã B huyện G1 tỉnh Nam Định là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian chung sống đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân theo anh C là do anh nghi ngờ chị D có quan hệ với người đàn ông khác nên vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn. Chị D đã tự ý bỏ về nhà bố đẻ tại xã B1 huyện Kiến Xương sinh sống từ năm 2009, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Trong thời gian chị D về nhà bố đẻ sống anh C cũng đã nhiều lần sang nhà bố đẻ chị D nói chuyện và khuyên chị D về vợ chồng chung sống cùng nhau nuôi dạy các con anh nhưng chị D không về. Xét thấy, tình trạng quan hệ hôn nhân của anh C và chị D là trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng thực tế không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận xử cho anh C được ly hôn chị D là phù hợp với quy định tại khoản 1Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

 [4]- Về quan hệ con chung: Vợ chồng anh C chị D có 02 con chung là Lê Hoàng L, sinh ngày 11/3/2006 và Lê Phương T, sinh ngày 13/8/2009 . Ly hôn anh C có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu L và chị D tiếp tục nuôi dưỡng cháu T. Cháu L có đơn đề nghị xin được ở với anh C và cháu T có đơn đề nghị được tiếp tục ở với chị D. Xét thấy, nuôi con là quyền lợi và nghĩa vụ của cả bố và mẹ, nhưng việc giao con cho ai nuôi phải đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con. Cháu L đang do anh C nuôi dưỡng và cháu có nguyện vọng được tiếp tục ở với anh C. Cháu Phương T đang do chị D nuôi dưỡng và cháu có nguyện vọng được tiếp tục ở với chị D. Vì vậy, để đảm bảo cho các cháu ăn ở và học tập ổn định cần giao cháu Lê Hoàng L cho anh C tiếp tục nuôi dưỡng và giao cháu Lê Phương T cho chị D tiếp tục nuôi dưỡng, anh C và chị D không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

 [5]- Về quan hệ tài sản: Vợ chồng anh C chị D không có tài sản chung, không vay nợ chung và không cho ai vay nợ

 [6]- Về án phí: Anh C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014;Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Lê Văn C được ly hôn chị Đặng ThịD.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao cháu Lê Hoàng L cho anh Lê Văn Ctrực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu Lê Phương T cho chị Đặng Thị D trực tiếp nuôi dưỡng. Anh C, chị D không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về quan hệ tài sản: Không có.

4. Về án phí: Anh Lê Văn C phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng tại biên lai thu tiền số 00001044 ngày 08/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, như vậy anh Lê Văn C đã nộp xong án phí ly hôn sơ thẩm.

5.Về quyển kháng cáo: Anh C và chị D vắng mặt tại phiên tòa, có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2018/HNGĐ-ST ngày 02/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:38/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;