Bản án 38/2017/DS-ST ngày 13/11/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 38/2017/DS-ST NGÀY 13/11/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 11 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 153/2017/TLST-DS ngày 12 tháng 10 năm 2017 về viêc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2017/QĐXXST-DS ngày 02 tháng 11 năm 2017 giữa các đươngsự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 1967

Địa chỉ: Ấp Đ, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Y, sinh năm 1978

Địa chỉ: Ấp Đ, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình làm việc tại Tòa án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng N trình bày:

Vào tháng 01 âm lịch năm 2016, ông Y có hỏi vay của bà N 04 chỉ vàng 24kara, thời hạn nay 01 năm với lãi suất là 02 chỉ vàng 24 kara. Tuy nhiên đến hạn trả nợ ông Y không thực hiện trả vốn và lãi theo quy định.

Đến ngày 06/02/2016 ông Y tiếp tục hỏi vay thêm 02 chỉ vàng 24kara với lãi suất 300.000 đồng/ tháng. Ông Y thỏa thuận sẽ trả lãi đủ hàng tháng và trả trả số nợ vốn trong thời gian sớm nhất. Tuy nhiên ông Y chỉ thực hiện trả lãi đến tháng 6 năm 2016 và từ đó đến nay không trả vốn,lãi.

Tại phiên tòa bà N trình bày: Trong số 06 chỉ vàng 24 kara (Loại 9999) ông Y hỏi vay bà N chỉ trực tiếp cho ông Y vay 04 chỉ vào tháng 01 âm lịch năm 2016, 02 chỉ còn lại con trai của bà N cho ông Y vay vào ngày 06/02/2016.

Bà Ngâm thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu ông Y hoàn trả 04 chỉ vàng 24 kara (Loại 9999) ông Y vay vào tháng 01 năm 2016 và không yêu cầu trả lãi.

Trong bản tự khai và quá trình làm việc tại Tòa án, bị đơn ông Nguyễn Văn Y trình bày:

Ông Y thừa nhận tháng 01 âm lịch năm 2016 ông Y có vay của bà N 04 chỉ vàng24 kara (Loại 9999) và đến ngày 06/02/2016 ông Y tiếp tục hỏi vay của con trai bà N thêm 02 chỉ vàng 24 kara, tổng cộng vay của bà N và con trai bà N là 06 chỉ vàng 24kara. Ông Y xác định khi vay các bên có thỏa thuận lãi nhưng do làm ăn không có hiệu quả nên từ khi vay vàng đến nay ông chưa trả lãi cho bà N. Ông Y đồng ý trả nợ bà N 04 chỉ vàng 24kara (Loại 9999) nhưng xin trả nợ dần mỗi tháng 500.000 đồng cho đến khi hết nợ.

Qua yêu cầu khởi kiện và ý kiến của các đƣơng sự đã thống nhất và không thống nhất với nhau các vấn đề sau:

Những nội dung các đương sự đã thống nhất: Bà N và ông Y thống nhất xác nhận ông Y còn nợ của bà N 04 (Bốn) chỉ vàng 24 kara (Loại 999).

Ngoài lời trình bày của mình, các đương sự còn thống nhất với chứng cứ do nguyên đơn cung cấp trong hồ sơ vụ án là Biên bản hòa giải của ấp Đ, xã Đ ngày 31/7/2017. Nội dung không thống nhất: Bà N yêu cầu ông Y trả số nợ 04 chỉ vàng 24 kara làm 01 lần dứt điểm, ông Y đề nghị trả nợ dần mỗi tháng 500.000 đồng cho đến khi hết nợ

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về tố tụng:

Thẩm quyền giải quyết vụ án: các đương sự cùng có nơi cư trú trên địa bàn huyện A, căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên.

Tại phiên tòa bà N thay đổi yêu cầu khởi kiện, không tiếp tục yêu cầu ông Y trả nợ 06 (Sáu) chỉ vàng 24kara (Loại 9999) mà yêu cầu trả 04 (Bốn) chỉ vàng 24 kara (Loại 9999). Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà N khởi kiện yêu cầu ông Y trả số nợ vay là 04 chỉ vàng 24 kara. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Xét yêu cầu khởi kiện của bà N, Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông Y đều thừa nhận vào tháng 01 năm 2016 có hỏi vay của bà N 04 (Bốn) chỉ vàng 24kara (Loại 9999) đến nay chưa trả vốn, lãi. Lời thừa nhận của ông Y còn phù hợp với sự xác nhận nợ của vợ ông Y thể hiện tại biên bản hòa giải ngày 31/7/2017 của tổ hòa giải ấp Đ, xã Đ. Từ những chứng cứ trên có cơ sở để xác định yêu cầu khởi kiện của bà N là có căn cứ. Do ông Y vi phạm nghĩa vụ trả nợ và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người cho vay, qua thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử thống nhất căn cứ vào Điều 466 Bộ luật dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N buộc ông Y hoàn trả cho bà N 04 (Bốn) chỉ vàng 24kara (Loại 9999).

Đối với yêu cầu xin trả nợ dần của ông Y, Hội đồng xét xử nhận thấy: Ông Y vi phạm nghĩa vụ trả nợ đã gây thiệt hại tới quyền lợi của bà N, nay tiếp tục xin trả nợ theo hình thức trả dần mỗi tháng 500.000 đồng/tháng kéo dài thời gian trả nợ sẽ tiếp tục gây thiệt hại tới quyền lợi của người cho vay và đề nghị trả nợ dần của ông Y không được bà N đồng ý nên không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của ông Y.

Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà N được chấp nhận buộc ông Y phải nộp toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật là: (04 chỉ vàng 24kara (loại 9999) x 3.500.000 đồng/chỉ) x 5% = 700.000 đồng

Hoàn trả cho bà N sô tiên đã nộp tạm ứng án phí sơ thẩm 525.000 đồng

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Điều 147, Điều 273, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 463, Điều 466 của Bộ luật dân sự 2015;

- Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên Xử:

1. Chấp nhận việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hồng N về việc không tiếp tục yêu cầu ông Nguyễn Văn Y phải trả nợ 06 (Sáu) chỉ vàng 24 kara (Loại 9999) mà yêu cầu ông Nguyễn Văn Y trả nợ 04 (Bốn) chỉ vàng 24kara (Loại 9999).

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hồng N về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn Y trả số nợ 04 (Bốn) chỉ vàng 24 kara (Loại 9999).

Buộc ông Nguyễn Văn Y hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Hồng N 04 (Bốn) chỉ vàng 24kara (loại 9999).

Nghĩa vụ trả nợ được thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc ông Nguyễn Văn Y phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn đồng).

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Hồng N sô tiên tạm ứng án phí sơ thẩm 525.000 đồng (Năm trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiên sô 0007052 ngày 12/10/2017 tại Chi cuc thi hanh an dân sư huyện A.

4. Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 13/11/2017.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sựthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

595
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2017/DS-ST ngày 13/11/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:38/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;