TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 374/2019/HS-PT NGÀY 20/11/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Vào ngày 20 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 325/TLPT-HS ngày 24 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo: Nguyễn Anh V và các đồng phạm về tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”, do có kháng cáo của các bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HS-ST ngày 15/08/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1567/2019/QĐXXPT-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019.
- Bị cáo kháng cáo:
1. Nguyễn Anh V, tên gọi khác: V Lợi. Sinh ngày 18/02/1991 tại Gia Lai. Nơi ĐKHKTT: thôn Đ1, xã I, huyện Đ2, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Minh (chết) và bà Bùi Thị Lợi (chết); bị cáo có vợ là Lê Thị Hạnh, có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 16/8/2011 có hành vi gây thương tích, bị Tòa án nhân dân huyện C1 xử phạt 12 tháng tù giam, ngày 10/11/2012 chấp hành xong hình phạt về địa phương sinh sổng, đã được xóa án tích; Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
2. Đặng Hữu H, tên gọi khác: Béo. Sinh ngày 01/6/1985 tại Hà Nam. Nơi ĐKHKTT: làng Gôn, xã I, huyện Đ2, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Hữu Nụ và bà Nguyễn Thị Thiện; bị cáo có vợ là Trần Thị Len, có 03 người con; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
3. Phan Đức H1, tên gọi khác: H1 Sách. Sinh ngày 28/4/1985 tại Gia Lai. Nơi ĐKHKTT: thôn la Lâm, xã Ia Krêl, huyện Đ2, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Đức L và bà Nguyễn Thị Th; bị cáo có vợ là Ngô Thị H; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 23/9/2004 có hành vi cố ý gây thương tích, bị Tòa án Quân sự khu vực 1, Quân khu 5 xử phạt 30 tháng tù, ngày 24/9/2004 chấp hành xong hình phạt về địa phương sinh sống, nhưng chưa hoàn thành nghĩa vụ bồi thường nên chưa được xóa án tích; Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
4. Lê Văn T, tên gọi khác: T đầu đất. Sinh ngày 30/5/1990 tại Thanh Hóa. Nơi ĐKHKTT: tổ dân phố 6, thị trấn Ch, huyện Đ2, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H và bà Trương Thị N; bị cáo có vợ là Hoàng Thị M, có 01 người con; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 20/4/2009 có hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản, bị Tòa án nhân dân huyện Đ2 xử phạt 08 tháng tù, ngày 01/9/2009 chấp hành xong hình phạt về địa phương sinh sống, đã được xóa án tích; Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
5. Nguyễn Đình T1, tên gọi khác: T1 hách. Sinh ngày 09/6/1991 tại Gia Lai. Nơi ĐKHKTT: thôn Thanh Tân, xã Ia Krêl, huyện Đ2, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vân: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình L (đã chết) và bà Cao Thị M; bị cáo có vợ là Lê Thị Đ, có 01 người con; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 17/6/2012 có hành vi Gây rối trật tự công cộng, bị Tòa án nhân dân huyện Đ2 xử phạt 12 tháng tù, ngày 21/6/2012 chấp hành xong hình phạt về địa phương sinh sống, đã được xóa án tích; Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
6. Nguyễn Ngọc Q, tên gọi khác: Ty Iadit. Sinh ngày 20/5/1986 tại Gia Lai. Nơi ĐKHKTT: thôn Đ1, xã I, huyện Đ2, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vân: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc D và bà Lưu Thị S; bị cáo có vợ là Nguyễn Ngọc A, có 02 người con; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
7. Nguyễn Thanh H2, tên gọi khác: H2 Miền. Sinh ngày 11/11/1987 tại Gia Lai. Nơi ĐKHKTT: thôn 2, xã I1, huyện I2, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn H và bà Mai Thị M; bị cáo có vợ là Phạm Thị Hồng Th, có 02 người con; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: 25/8/2005 phạm tội trộm cắp tài sản, bị Tòa án nhân dân huyện I2 xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Ngày 11/6/2008 có hành vi đánh bạc bị Tòa án nhân dân huyện Đ2 xử phạt 09 tháng tù, ngày 25/9/2010 chấp hành xong hình phạt về địa phương sinh sống, đã được xóa án tích; Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
8. Trần Đức L, tên gọi khác: không. Sinh ngày 20/9/1989 tại Gia Lai. Nơi ĐKHKTT: thôn TN, xã I, huyện Đ2, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thế Ng và bà Nguyễn Thị Th; bị cáo có vợ là Lê Ánh Ng, có 02 người con; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
Ngoài ra trong vụ án nầy còn có bị cáo Phạm Đức C không kháng cáo.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 15 tháng 7 năm 2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai, phát hiện Phan Đức H1 có biểu hiện nghi vấn hoạt động cá độ bóng đá qua mạng, thì Phan Đức H1 đến của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra H1 đã khai nhận và cung cấp tài khoản cá độ bóng đá DZA47140P001 của trang mạng “Bóng 88.com” mật khấu Anh Hoan 123 và số tiền trong tài khoản để cá độ bóng đá và tài khoản trên do Phạm Đức C trú thôn TL, xã B1, huyện C1, tỉnh Gia Lai cung cấp. Sau khi bị phát hiện Phạm Đức C đã bỏ trốn xuống Bình Định thuê phòng 306 khách sạn Hoàng Yến 3, số 376 Xuân Diệu, thành phố Quy Nhơn. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai, đã tiến hành lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và phát hiện thu giữ 02 điện thoại di động hiệu iPhone, 01 máy tính Casio, 4.500.000đ và 01 số giấy tờ liên quan đến ghi chép cá độ bóng đá và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cụ thể như sau:
Trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 7/2018 khi diễn ra Giải bóng đá vô địch thế giới (Gọi tắt là World Cup) năm 2018 được tổ chức tại nước Nga, Phạm Đức C rủ Nguyễn Anh V tham gia lấy tài khoản từ nhà cái với giá đô 15 (Tức mỗi đô tương đương với 15.000đ) về nâng giá lên để tổ chức đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá được, thua bằng tiền trên mạng Internet để hưởng lợi, thì được Nguyễn Anh V đồng ý. Phạm Đức C liên hệ với đối tượng tên Tuấn ở Tp Hồ Chí Minh (Chưa xác định được nhân thân lai lịch và địa chỉ) lấy tài khoản DTA47140P, mật khẩu “ccccl 111A” về để cùng với Nguyễn Anh V tổ chức cá độ bóng đá trên trang mạng Bong 88.com. Sau khi lấy được tài khoản và mật khẩu về Phạm Đức C chia tài khoản DTA47140P thành các tài khoản gồm: DTA47140P000, DTA47140P001, DTA47140P002, DTA47140P003, DTA47140P005, DTA47140P007, DTA47140P009, DTA47140P00B, DTA47140P00C giao cho Đặng Hữu H (Béo), Phan Đức H1 (H1 sách), Lê Văn T (T đầu đất), Nguyễn Đình T1 (T1 hách), Ngọc H2, Nguyễn Ngọc Q (Ty Iadit), Nguyễn Thanh H2 (H2 miền),Trần Đức L (L khiêu) để tham gia đặt cược cá độ bóng đá được, thua bằng tiền trên mạng Internet tại các trận đấu trong giải World Cup 2018 và được hưởng tiền hoa hồng do nhà cái quy định trên trang mạng bóng đá. Cụ thể như sau:
Ngày 14/6/2018, Đặng Hữu H đã điện thoại liên hệ với Nguyễn Anh V hỏi lấy tài khoản để tham gia cá độ bóng đá, Nguyễn Anh V liên hệ với Phạm Đức C lấy tài khoản DTA47140P000, mật khẩu “bbbbl 111A”, giá đô 50 (Tức mỗi đô tương đương 50.000đ) giao cho Đặng Hữu H. Từ ngày 14/6/2018 đến ngày 11/7/2018, Đặng Hữu H tham gia đặt cược cá độ bóng đá tại tài khoản DAT47140P000 tổng cộng 62 trận đấu với tổng số tiền: 4.695.500.000đ, thắng cược số tiền: 1.711.870.000đ, thua cược số tiền: 1.859.417.500đ. Số tiền hoa hồng Đặng Hữu H được hưởng là: 40.077.500đ (theo quy định của nhà cái). Từ khi tham gia cá độ bóng đá đến khi bị bắt Đặng Hữu H đã thua tổng cộng: 107.470.000đ.
Ngày 13/6/2018 Phạm Đức C, Nguyễn Anh V và Phan Đức H1 uống cà phê tại thị trấn Ch- Đ2- Gia Lai. Trong lúc ngồi chơi H1 hỏi V lấy tài khoản để tham gia cá độ bóng đá trong giải World Cup 2018, V nói C cấp cho H1 tài khoản DTA47140P001, mật khẩu “Anh hoan 123”, giá đô 65 (Tức mỗi đô tương đương với 65.000đ). Từ ngày 14/6/2018 đến ngày 14/7/2018, H1 tham gia cá độ bóng đá tại tài khoản DTA47140P001 tổng cộng 63 trận đấu với tổng số tiền là 804.635.000đ, thắng cược 328.234.400đ, thua cược 382.998.200d. số tiền hoa hồng Phan Đức H1 được hưởng là: 6.717.750đ. Từ khi tham gia cá độ bóng đá đến khi bị bắt Phan Đức H1 đã thua tổng cộng: 48.046.050đ.
Ngày 12/6/2018, khi Lê Văn T hỏi lấy tài khoản để tham gia cá độ bóng đá trong giải World Cup 2018, Nguyễn Anh V gọi điện cho Phạm Đức C nói sự việc đồng thời cho T số điện thoại của C để T liên hệ.T liên hệ với C lấy tài khoản DTA47140P002, mật khẩu “kkkkllllK”, giá đô 50 (Tức mỗi đô tương đương với 50.000đ). Từ ngày 14/6/2018 đến ngày 15/7/2018, Lê Văn T tham gia cá độ bóng đá tổng cộng 44 trận đấu với tổng số tiền là 808.000.000đ, thắng cược 276.912.500d, thua cược 291.545.000d. số tiền hoa hồng Lê Văn T được hưởng là: 7.817.500đ. Từ khi tham gia cá độ bóng đá đến khi bị bất Lê Văn T đã thua tổng cộng: 6.815.000đ.
Ngày 14/6/2018, khi Nguyễn Đình T1 hỏi lấy tài khoản để tham gia cá độ bóng đá trong giải World Cup năm 2018, Nguyễn Anh V liên hệ với Phạm Đức C lấy tài khoản DTA47I40P003, mật khẩu “Vuong123”, giá đô 50 (Tức mỗi đô tương đương với 50.000đ) giao cho Nguyền Đình T1. Từ ngày 14/6/2018 đến ngày 15/7/2018, Nguyễn Đình T1 tham gia đặt cược cá độ bóng đá tổng cộng 64 (Sáu mươi bốn) trận với tổng số tiền: 602.250.000d, thắng cược số tiền: 215.455.500đ, thua cược số tiền: 248.244.000đ, số tiền hoa hồng Nguyễn Đình T1 được hưởng là: 2.152.500đ. Từ khi tham gia cá độ bóng đá đến khi bị bắt Nguyễn Đình T1 đã thua tổng cộng: 30.636.000đ.
Ngày 14/6/2018, Nguyễn Anh V lấy tài khoản DTA47140P005, mật khẩu “vvvvl 111A”, giá đô 50 (Tức mỗi đô tương đương với 50.000đ) từ Phạm Đức C để tổ chức cho đối tượng tên Ngọc H3 (Chưa xác định được nhân thân lai lịch) tham gia cá độ bóng đá. Từ ngày 14/6/2018 đến ngày 23/6/2018, H3 đặt cược cá độ bóng đá tổng cộng 17 trận đấu với tổng số tiền là 466.500.000đ, thắng cược 118.605.000đ, thua cược 249.827.500đ. Từ khi tham gia cá độ bóng đá đến khi bị bắt Ngọc H3 đã thua tổng cộng: 131.222.500đ.
Ngày 14/6/2018, khi Nguyễn Ngọc Q hỏi lấy tài khoản để tham gia cá độ bóng đá trong giải World Cup 2018, Nguyễn Anh V liên hệ với Phạm Đức C lấy tài khoản DTA47140P007, mật khẩu “tttt 1111A”, giá đô 50 (Tức mỗi đô tương đương 50.000đ) giao cho Nguyễn Ngọc Q. Từ ngày 14/6/2018 đến ngày 15/7/2018, Nguyễn Ngọc Q tham gia cá độ bóng đá tổng cộng 64 trận đấu với tổng số tiền là 748.400.000đ thắng cược 291.415.500đ, thua cược 363.010.000đ. Số tiền hoa hồng Nguyễn Ngọc Q được hưởng là: 3.717.500đ. Tại tài khoản này từ khi tham gia cá độ bóng đá đến khi bị bắt Nguyễn Ngọc Q đã thua tổng cộng: 67.877.000đ.
Ngày 15/7/2018, Nguyễn Anh V tiếp tục lấy tài khoản DTA47140P00C, mật khẩu “vvvv7777A”, giá đô 30 (Tức mỗi đô tương đương với 30.000đ) từ Phạm Đức C giao cho Nguyễn Ngọc Q tham gia cá độ bóng đá trong giải World Cup 2018. Ngày 15/7/2018, Nguyễn Ngọc Q tham gia cá độ 01 trận với tổng số tiền 24.000.000đ, thắng cược 23.520.000đ, số tiền hoa hồng Nguyễn Ngọc Q được hưởng là: 300.000đ. Tại tài khoản này Nguyễn Ngọc Q cá độ bóng đá thắng tổng cộng: 23.820.000đ.
Ngày 21/6/2018, khi Nguyễn Thanh H2 hỏi lấy tài khoản để tham gia cá độ bóng đá trong giải World Cup 2018, Nguyễn Anh V đưa số điện thoại của H2 để Phạm Đức C liên hệ giao cho H2 tài khoản DTA47140P009, mật khẩu “hhhhllllA”, giá đô 50 (Tức mỗi đô tương đương với 50.000đ). Từ ngày 21/6/2018 đến ngày 23/6/2018, H2 tham gia cá độ tổng cộng 05 trận đấu với tổng số tiền là 241.750.000đ (Hai trăm bốn mươi mốt triệu bảy trăm năm mươi ngàn đồng), thắng cược 19.900.000đ, thua cược 170.213.000đ. số tiền hoa hồng Nguyễn Thanh H2 được hưởng là: 545.000đ. Từ khi tham gia cá độ bóng đá đến khi bị bắt Nguyễn Thanh H2 đã thua tổng cộng: 149.768.000đ.
Ngày 03/7/2018, khi Trần Đức L hỏi lấy tài khoản để tham gia cá độ bóng đá trong giải World Cup 2018, Nguyễn Anh V đưa số điện thoại của L để Phạm Đức C liên hệ giao cho L tài khoản DTA47140P00B, mật khẩu “kkkkl 111 A”, giá đô 100 (Tức mỗi đô tương đương 100.000đ). Từ ngày 03/7/2018 đến ngày 15/7/2018, Trần Đức L tham gia cá độ tổng cộng 09 trận đấu với tổng sổ tiền 59.000.000đ, thắng cược 23.480.000đ, thua cược 23.21 1.000đ, số tiền hoa hồng Trần Đức L được hưởng là: 610.000đ. Từ khi tham gia cá độ bóng đá đến khi bị bắt Trần Đức L đã thắng tổng cộng: 879.000đ.
Tại cáo trạng số 18/CT-VKS-P2 ngày 08/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã truy tố các bị cáo Phạm Đức C và Nguyễn Anh V về tội: "Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015 và các bị cáo Đặng Hữu H cùng đồng phạm về tội: "Đánh bạc” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HS-ST ngày 15/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Phạm Đức C, Nguyễn Anh V phạm tội “Tổ chức đánh bạc”; Các bị cáo Đặng Hữu H, Phan Đức H1, Lê Văn T, Nguyễn Đình T1, Nguyễn Ngọc Q, Nguyễn Thanh H2, Trần Đức L phạm tội “Đánh bạc”.
1. Về hình phạt:
1.1. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 322; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015. về tội “Tổ chức đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Phạm Đức C 40 (bốn mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/7/2018.
1.2. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 322; điểm s, t, u khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015. về tội “Tổ chức đánh bạc’’.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh V 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
1.3. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 321; điểm s, t, u khoản 1, khoản 2; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54, Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015. về tội “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Phan Đức H1 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt bị cáo Đặng Hữu H 19 (mười chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
1.4. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54, Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 về tội “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Lê Văn T 19 (mười chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Q 19 (mười chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
1.5. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54, Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 về tội “Đánh bạc’’.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T1 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
1.6. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54, Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 về tội “Đánh bạc” Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H2 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt bị cáo Trần Đức L 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
1.7. Áp dụng khoản 3 Điều 322 Bộ luật hình sự 2015 buộc các bị cáo Phạm Đức C, Nguyễn Anh V mỗi bị cáo phải nộp sổ tiền 20.000.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.
1.8. Áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 buộc các bị cáo Đặng Hữu H, Phan Đức H1, Lê Văn T, Nguyễn Đình T1, Nguyễn Ngọc Q, Nguyễn Thanh H2, Trần Đức L mỗi bị cáo phải nộp số tiền 10.000.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.
Ngoài ra bản án còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 22/8/2019 bị cáo Nguyễn Anh V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 23/8//2019 các bị cáo Nguyễn Đình T1, Phan Đức Hoan, Lê Văn Toàn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 26/8/2019 các bị cáo Trần Đức L, Đặng Hữu H, Nguyễn Ngọc Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Ngày 28/8/2019 bị cáo Nguyễn Thanh H2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 14/11/2019 bị cáo Nguyễn Anh V có đơn xin rút lại đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo vẫn gữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với nội dung tương đối giống nhau: Các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ già yếu, con nhỏ dại, bản thân là lao động chính...
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm về vụ án cho rằng: Về tố tụng, HĐXX tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, về nội dung, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người đúng tội, mức hình phạt tương xứng. Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo không cung cấp được chứng cứ hoặc tình tiết giảm nhẹ nào mới, do vậy đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên phần hình phạt của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đặng Hữu H có đơn xin hoãn phiên tòa với lý do nuôi cha mẹ bị ốm, nhưng bị cáo không cung cấp chứng cứ chứng minh. Theo đề nghị của các bị cáo có mặt và của Kiểm sát viên, HĐXX quyết định tiếp tục tiến hành phiên tòa.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo, thì thấy: Đối với bị cáo Đặng Hữu H, án sơ thẩm xác định bị cáo có vai trò trực tiếp tham gia đánh bạc, tổng giá trị bị cáo tham gia đánh bạc là 6.407.370.000đ. Với hành vi và hậu quả gây ra, bị cáo bị truy tố theo điểm b,c khoản 2 Điều 321 BLHS năm 2015 có mức hình phạt tù từ 03 năm đến 7 năm. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng 01 tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần theo điểm g khoản 1 Điều 52 và 04 tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải theo điểm s, tích cực hợp tác trong giải quyết vụ án theo điểm t, lập công chuộc tội theo điểm u khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, xử phạt bị cáo 01 năm 07 tháng tù dưới khung hình phạt là nhẹ, bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có cơ sở để xem xét giảm án.
[3] Đối với bị cáo Phan Đức H1, án sơ thẩm xác định bị cáo có vai trò trực tiếp tham gia đánh bạc, tổng giá trị bị cáo tham gia đánh bạc là 1.132.869.400đ. Với hành vi và hậu quả gây ra, bị cáo bị truy tố theo điểm b,c khoản 2 Điều 321 BLHS năm 2015 có mức hình phạt tù từ 03 năm đến 7 năm. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng 01 tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần theo điểm g khoản 1 Điều 52 và 04 tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải theo điểm s, tích cực hợp tác trong giải quyết vụ án theo điểm t, lập công chuộc tội theo điểm u khoản 1,2 Điều 51, Điều 54. Bị cáo có tiền án về tội “Cố ý gây thương tích”, tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm 08 tháng tù dưới khung hình phạt là nhẹ, bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có cơ sở để xem xét giảm án.
[4] Đối với bị cáo Lê Văn T, án sơ thẩm xác định bị cáo có vai trò trực tiếp tham gia đánh bạc, tổng giá trị bị cáo tham gia đánh bạc là 1.084.912.500đ. Với hành vi và hậu quả gây ra, bị cáo bị truy tố theo điểm b,c khoản 2 Điều 321 BLHS năm 2015 có mức hình phạt tù từ 03 năm đến 7 năm. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng 01 tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần theo điểm g khoản 1 Điều 52 và 03 tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải theo điểm s, tích cực hợp tác trong giải quyết vụ án theo điểm t, khoản 1 Điều 51, Điều 54. Bị cáo có nhân thân xấu, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm 07 tháng tù dưới khung hình phạt là không nặng, bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có cơ sở để xem xét giảm án.
[5] Đối với bị cáo Nguyễn Đình T1, án sơ thẩm xác định bị cáo có vai trò trực tiếp tham gia đánh bạc, tổng giá trị bị cáo tham gia đánh bạc là 817.705.500đ. Với hành vi và hậu quả gây ra, bị cáo bị truy tố theo điểm b,c khoản 2 Điều 321 BLHS năm 2015 có mức hình phạt tù từ 03 năm đến 7 năm. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng 01 tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần theo điểm g khoản 1 Điều 52 và 03 tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải theo điểm s, tích cực hợp tác trong giải quyết vụ án theo điểm t, khoản 1,2 Điều 51, Điều 54. Bị cáo có nhân thân xấu, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm 04 tháng tù dưới khung hình phạt là không nặng, bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có cơ sở để xem xét giảm án.
[6] Đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Q, án sơ thẩm xác định bị cáo có vai trò trực tiếp tham gia đánh bạc, tổng giá trị bị cáo tham gia đánh bạc là 1.087.335.500đ. Với hành vi và hậu quả gây ra, bị cáo bị truy tố theo điểm b,c khoản 2 Điều 321 BLHS năm 2015 có mức hình phạt tù từ 03 năm đến 7 năm. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng 01 tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần theo điểm g khoản 1 Điều 52 và 03 tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải theo điểm s, tích cực hợp tác trong giải quyết vụ án, theo điểm t, khoản 1 Điều 51, Điều 54, xử phạt bị cáo 01 năm 07 tháng tù dưới khung hình phạt là nhẹ, bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có cơ sở để xem xét giảm án.
[7] Đối với bị cáo Nguyễn Thanh H2, án sơ thẩm xác định bị cáo có vai trò trực tiếp tham gia đánh bạc, tổng giá trị bị cáo tham gia đánh bạc là 261.650.000đ. Với hành vi và hậu quả gây ra, bị cáo bị truy tố theo điểm b,c khoản 2 Điều 321 BLHS năm 2015 có mức hình phạt tù từ 03 năm đến 7 năm. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng 01 tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần theo điểm g khoản 1 Điều 52 và 03 tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải theo điểm s, tích cực hợp tác trong giải quyết vụ án theo điểm t, khoản 1 Điều 51, Điều 54. Bị cáo có nhân thân xấu, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm 01 tháng tù dưới khung hình phạt là nhẹ, bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có cơ sở để xem xét giảm án.
[8] Đối với bị cáo Trần Đức L, án sơ thẩm xác định bị cáo có vai trò trực tiếp tham gia đánh bạc, tổng giá trị bị cáo tham gia đánh bạc là 82.480.000đ. Với hành vi và hậu quả gây ra, bị cáo bị truy tố theo điểm b,c khoản 2 Điều 321 BLHS năm 2015 có mức hình phạt tù từ 03 năm đến 7 năm. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng 01 tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần theo điểm g khoản 1 Điều 52 và 03 tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải theo điểm s, tích cực hợp tác trong giải quyết vụ án theo điểm t, khoản 1 Điều 51, Điều 54, xử phạt bị cáo 01 năm tù dưới khung hình phạt là nhẹ, bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có cơ sở để xem xét giảm án.
[9] Như vậy, qua đánh giá phân tích hành vi, vai trò và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của từng bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã cá thể hóa hình phạt cho các bị cáo là quá nhẹ so với khung hình phạt, nên HĐXX thống nhất quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên mức án như bản án sơ thẩm đã tuyên. Tuy nhiên, HDXX xét thấy trong vụ án này các bị cáo phạm tội có tổ chức, giá trị đánh bạc lớn, phạm tội nhiều lần, nhưng mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là quá nhẹ, không có tác dụng ren đe, cải tạo, giáo dục. Do Viện kiểm sát không kháng nghị, nên HĐXX không xem xét, nhưng cần kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.
Riêng bị cáo Nguyễn Anh V đã rút đơn kháng cáo, theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, HĐXX đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo V.
[10] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của các bị cáo không chấp nhận, nên các bị cáo phải chịu án phí theo quy định;
[11] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Hữu H, Phan Đức H1, Lê Văn T, Nguyễn Đình T1, Nguyền Ngọc Q, Nguyễn Thanh H2, Trần Đức L; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HS-ST ngày 15/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
Tuyên bố bị cáo Phạm Đức C, Nguyễn Anh V phạm tội “Tổ chức đánh bạc”; Các bị cáo Đặng Hữu H, Phan Đức H1, Lê Văn T, Nguyễn Đình T1, Nguyền Ngọc Q, Nguyễn Thanh H2, Trần Đức L phạm tội “Đánh bạc” 1.Về hình phạt:
1.1. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 321; điểm s, t, u khoản 1, khoản 2; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54, Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015. về tội “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Phan Đức H1 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt bị cáo Đặng Hữu H 19 (mười chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
1.2. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54, Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015. về tội “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Lê Văn T 19 (mười chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Q 19 (mười chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
1.3. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54, Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015. về tội “Đánh bạc’’.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T1 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
1.4. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54, Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015. về tội “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H2 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt bị cáo Trần Đức L 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Anh V.
3. Về án phí: Các bị cáo Đặng Hữu H, Phan Đức H1, Lê Văn T, Nguyễn Đình T1, Nguyền Ngọc Q, Nguyễn Thanh H2, Trần Đức L mỗi bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm là 200.000đ.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (20/11/2019).
Bản án 374/2019/HS-PT ngày 20/11/2019 về tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc
Số hiệu: | 374/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về