Bản án 373/2018/HSPT ngày 07/09/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 373/2018/HSPT NGÀY 07/09/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 301/2018/TLPT-HS ngày 12 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh đối với bản án hình sự sơ thẩm số 99/2018/HSST ngày 07/06/2018 của Tòa án nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng nghị:

Nguyễn Hoàng Anh K; giới tính: nữ; sinh ngày 09 tháng 02 năm 1999, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 1, xã Tân Thạnh Đ, huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn H và bà Lê Thị L; bị cáo sống chung như vợ chồng với Huỳnh Nhật L (không đăng ký kết hôn) và 01 con (sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú - có mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Huỳnh Nhật L và người bị hại Tạ Thị Hải Y không kháng cáo – vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 05-11-2017, Huỳnh Nhật L điều khiển xe gắn máy biển số 50Q-3861 (mượn của ông Lê Văn Nuôi) chở vợ là Nguyễn Hoàng Anh K đi mượn tiền chữa bệnh cho con, nhưng không mượn được tiền. Khoảng 10 giờ 40 phút cùng ngày, khi đang đi trên đường Tỉnh lộ 8, hướng từ xã Trung An về ngã tư Tân Qui, L nhìn thấy bà Tạ Thị Hải Y đứng trước cửa hàng xăng dầu Thành Đạt thuộc ấp 12, thuộc xã Tân Thạnh Đ, huyện A đợi xe buýt trên tay cầm điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus. L nói cho K biết và kêu K giật điện thoại của bà Y, lúc đầu K không đồng ý, L tiếp tục thuyết phục K là cần có tiền để chữa bệnh cho con nên K đồng ý. L điều khiển xe chuyển hướng sang trái đường áp sát bà Y, K dùng tay trái giật chiếc điện thoại của bà Y, rồi L tăng ga bỏ chạy. Bà Y truy hô thì được ông Phạm Thừa Em dùng xe mô tô đuổi theo khoảng 2Km và cùng người dân bắt giữ L giao công an xã Tân Thạnh Đ xử lý.

Kết quả định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện A kết luận: điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus có trị giá 8.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 99/2018/HSST ngày 07-6-2018 của Tòa án nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh, đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Nhật L và Nguyễn Hoàng Anh K phạm tội “Cướp giật tài sản”

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Huỳnh Nhật L 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 20-6-2018 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị phúc thẩm một phần bản án hình sự sơ thẩm số 99/2018/HSST ngày 07-6-2018 của Tòa án nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K theo hướng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999 và cho bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh và trong phần tranh luận phát biểu quan điểm xét xử vụ án: Với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K tại phiên tòa phúc thẩm, xét thấy cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K phạm tội “Cướp giật tài sản” là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo phạm tội nhất thời, bị rủ rê do hoàn cảnh khó khăn không có tiền chữa bệnh cho con nhỏ, có chồng là bị cáo Huỳnh Nhật L cũng là bị cáo trong vụ án; có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, người bị hại có đơn bãi nại. Vì vậy, đề nghị chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát huyện A, sửa án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng con nhỏ cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo. Riêng về đề nghị áp dụng cho bị cáo tình tiết tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự là không có cơ sở, đề nghị không chấp nhận.

- Bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã xét xử, không có ý kiến gì về nội dung kháng nghị. Bị cáo không tranh luận, chỉ xin được hưởng án treo để có điều kiện nuôi con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Do cần tiền chữa bệnh cho con nên vào ngày 05-11-2017, Huỳnh Nhật L điều khiển xe gắn máy biển số 50Q-3861 chở vợ là Nguyễn Hoàng Anh K đi mượn tiền của bạn nhưng không mượn được. Đến khoảng 10 giờ 40 phút cùng ngày, khi đang đi trên đường Tỉnh lộ 8 thì L nhìn thấy bà Tạ Thị Hải Y đứng đợi xe buýt, trên tay cầm điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus nên kêu K giật điện thoại di động của bà Y, lúc đầu K không đồng ý, L tiếp tục thuyết phục K là cần có tiền để chữa bệnh cho con nên K đồng ý. L điều khiển xe sát bà Y, K dùng tay trái giật chiếc điện thoại , rồi L tăng ga bỏ chạy được khoảng 2 km thì bị người dân bắt giữ giao công an xử lý.

Với hành vi đó của bị cáo và đồng phạm, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K phạm tội: “Cướp giật tài sản” theo d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K không kháng cáo. Viên kiểm sát nhân dân huyện A có quyết định kháng nghị phúc thẩm một phần bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện A trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện A đề nghị sửa một phần bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K theo hướng cho bị cáo được hưởng án treo. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K các tình tiết giảm nhẹ là: bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; hoàn cảnh khó khăn và áp dụng điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 để xử phạt bị cáo 03 (ba) năm tù là có phần nghiêm khắc. Nhận thấy bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm do bị rủ rê, nhất thời phạm tội, nhằm mục đích kiếm tiền chữa bệnh cho con nhỏ, ngoài các tình tiết giảm nhẹ cấp sơ thẩm đã áp dụng, bị cáo còn có các tình tiết giảm nhẹ chưa được áp dụng là phạm tội chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; ngoài ra bị cáo với bị cáo L là vợ chồng cần có người nuôi con nhỏ 17 tháng tuổi; ngoài lần phạm tội này bị cáo chưa từng vi phạm pháp luật nên xét không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm là có cơ sở. Do vậy, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo. Riêng về đề nghị áp dụng cho bị cáo tình tiết tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 là không có cơ sở, không chấp nhận.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo qui định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án có hiệu lực ngày 01/01/2017.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009; chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, sửa bản án sơ thẩm số 99/2018/HSST ngày 07-6-2018 của Tòa án nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh về biện pháp chấp hành hình phạt đối với Nguyễn Hoàng Anh K; phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm, tính từ ngày 07 tháng 9 năm 2018.

Giao bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K cho Ủy ban nhân dân xã Tân Thạnh Đ, huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo K thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử phạt bị cáo Huỳnh Nhật L, xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

(Đã giải thích chế định về án treo cho bị cáo Nguyễn Hoàng Anh K biết)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 373/2018/HSPT ngày 07/09/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:373/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;