Bản án 37/2022/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG

BN ÁN 37/2022/HS-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 20 tháng 7 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2022/TLST- HS ngày 19 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

36/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

ơng Nhựt Bc, sinh ngày 20/02/1983 tại An Minh, Kiên Giang; Giới tính: nam; Nơi cư trú: ấp TPD, xã DH, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp làm ruộng; trình độ văn hóa 10/12; quốc tịch Việt Nam; dân tộc Kinh; tôn giáo không; con ông Dương Văn S và bà Nguyễn Thị C; vợ là Lê Thị Y và có 02 người con (lớn nhất sinh năm 2010 và nhỏ nhất sinh năm 2016); tiền án: không; tiền sự: không. Về nhân thân: Ngày 16-11-2020 bị Ủy ban nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 4486/QĐ-XPVPHC với mức phạt tiền 10.000.000đ về hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu; đã nộp phạt ngày 23/11/2020. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 31/12/2021 đến ngày 05-01-2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Phạm Hoàng Lq1, sinh năm 1992. Nơi cư trú: ấp K A1, xã VKT, huyện An Minh, Kiên Giang; có mặt.

+ Phan Thị Kim Lq2, sinh năm 1988. Nơi cư trú: ấp X A, xã T, huyện An Minh, Kiên Giang; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 18 giờ 30 ngày 31/12/2021, Nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc phát hiện 02 đối tượng nghi vấn vận chuyến hàng cấm, lực lượng Cảnh sát điều tra về Hình sự, Kinh tế và Ma túy phối hợp với Đội CSGT - TT Công an huyện An Minh, tiến hành chốt chặn trên tuyến lộ 967, thuộc Khu phố 2, Thị trấn Thứ Mười Một, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang. Tổ công tác phát hiện 02 đối tượng điều khiển xe mô tô lưu thông trên tuyến lộ 967 có biểu hiện nghi vấn, nên yêu cầu dừng phương tiện để kiểm tra. Tại thời điểm kiểm tra phát hiện trên xe mô tô hiệu Yamaha, loại Jupiter, biển kiểm soát 68M7-7533 do Dương Nhựt Bc điều khiển có chở theo 1.510 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu HERO được ngụy trang trong 02 thùng giấy. Kiểm tra phương tiện xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirus, biển kiểm soát 68P1-142.94 do Phạm Hoàng Lq1 điều khiển chở theo 650 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu HERO và 500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu JET được ngụy trang trong 02 thùng giấy.

Qua quá trình điều tra xác định được như sau: Vào khoảng 14 giờ ngày 31/12/2021 Lq3 nhà ở Rach Giá, tỉnh Kiên Giang gọi điện thoại cho bị can Dương Nhựt Bc nói có gửi xe "Gia Huệ" 351 cây thuốc thuốc lá điếu nhập lậu hiệu HERO và JET được ngụy trang trong 06 thùng giấy có ghi tên người nhận trên thùng giấy là "Thảo Nhi" và số điện thoại của bị can Bc, yêu cầu bị can Bc vận chuyển đi giao cho cho 03 người ở Xèo Nhàu, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang gồm Nguyễn Văn Lq4 02 thùng thuốc lá điếu nhập lậu, trong đó có 65 cây thuốc HERO và 50 cây thuốc JET; Lý Thị Ánh lq5 02 thùng thuốc lá điếu nhập lậu, trong đó có 35 cây thuốc HERO và 50 cây thuốc JET và Phan Thị Kim Lq2 02 thùng thuốc lá điếu nhập lậu, trong đó có 151 cây thuốc HERO. Mỗi thùng thuốc giao được cho khách thì Lq3 trả cho Bc 100.000 đồng, thì Bc đồng ý. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, Bc đi đến nhà anh Nguyễn Hoàng Lq6, thuộc Khu phố 2, Thị trấn Thứ Mười Một, huyện An Minh thì gặp được Phạm Hoàng Lq1 là bạn bè quen biết ngoài xã hội, Bc nhờ Lq1 vận chuyển giúp Bc 02 thùng đồ về Xẻo Nhàu thì Lq1 đồng ý. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, nhà xe "Gia Huệ" thuộc Khu phố 2, thị trấn Thứ Mười Một, huyện An Minh gọi điện thoại cho Bc là hàng đã về tới nhà xe. Bc điều khiển xe mô tô cá nhân hiệu Yamaha, loại Jupiter, biển kiểm soát 68M7 – 7533; Lq1 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirus, biển kiểm soát 68P1 - 142.94 xe mượn của Lq6 đến nhà xe "Gia Huệ", mỗi người vận chuyển 02 thùng giấy được ngụy trang bên trong có chứa thuốc lá điếu nhập lậu hiệu HERO và JET. Khi đang lưu thông trên tuyến đường 967 thuộc Khu phố 2, Thị trấn Thứ Mười Một, huyện An Minh thì bị Công an chốt chặn bắt quả tang cùng tang vật. Tại Cơ quan điều tra bị can Bc khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm pháp luật và giao nộp thêm 500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu JET và 350 bao thuốc lá điều nhập lậu hiệu HERO được ngụy trang trong 02 thùng giấy còn gửi lại tại nhà xe Gia Huệ. Qua điều tra bị can Bc còn khai nhận vào năm 2021 có chở thuê 02 thùng thuốc lá điếu nhập lậu cho Lq3 và được Lq3 trả 200.000 đồng.

Vic thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện An Minh đã tạm giữ:

+ 1.000 (Một nghìn) bao thuốc lá nhập lậu hiệu JET;

+ 2.510 (Hai nghìn năm trăm mười) bao thuốc lá điếu nhập lậu;

+ 01 (Một) xe mô tô hiệu Yamaha, loại Jupiter, biển kiểm soát 68M7 - 7553;

+ 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loai Sirus, biển kiểm soát 68P - 142.94 (đã trả cho anh Lq6);

+ 01 (Một) điện thoại di động hiệu Realme, màn hình cảm ứng, số IMEI1:

865592040198632; số IMEI 2: 865592040198624, đã qua sử dụng (đã trả cho Bc);

+ 01 (Một) điện thoại di động hiệu OPPO A9 2020, màn hình cảm ứmg, số IMEI1: 866967042938566; số IMEI 2: 866967042938566, đã qua sử dụng (đã trả cho Lq1).

Tại Cáo trạng số: 26/CT-VKSAM ngày 04-5-2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang truy tố Dương Nhựt Bc về tội Vận chuyển hàng cấm theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, - Kiểm sát viên kết luận các bị cáo Bc phạm tội vận chuyển hàng cấm và đề nghị áp dụng điểm e khoản 2 Điều 191, điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 35 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Bc từ 100 triệu đến 150 triệu đồng.

- Bị cáo trình bày: Bị cáo Bc thừa nhận hành vi vi phạm như cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát, không tranh luận gì.

- Người liên quan thừa nhận hành vi như cáo trạng, không yêu cầu gì.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: bị cáo trình bày đã biết lỗi, rất hối hận về hành vi của bản thân gây ra, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi như Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai trước đó tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ khác. Từ đó, có đủ cơ sở để xác định: Vào lúc 18 giờ 30, ngày 31/12/2021, trên tuyến đường 967 thuộc Khu phố 2, Thị trấn Thứ Mười Một, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang, bị cáo Dương Nhựt Bc có hành vi vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra về Hình sự, Kinh tế và Ma túy phối hợp với Đội CSGT - TT Công an huyện An Minh phát hiện, lập biên bản thu giữ 2.660 bao; Bc khai và đã thu giữ được số thuốc còn để nhà xe là 850 bao. Tổng số thuốc lá điếu nhậu lậu mà Bc vận chuyển là 3.510 bao.

[3] Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Khi thực hiện hành vi bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết rõ thuốc lá điếu nhãn hiệu HERO và JET là hàng cấm nhưng vì mục đích tư lợi nên bị cáo đã nhận vận chuyển cho người khác là cố ý phạm tội; Số lượng thuốc lá điếu nhập lậu mà bị cáo vận chuyển là 3.510 bao (trên 3.000 bao) là tình tiết định khung hình phạt tại điểm e khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự. Do đó Viện kiểm sát truy tố và kết luận bị cáo Bc phạm tội vận chuyển hàng cấm theo điểm e khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Tội phạm bị cáo thực hiện là nguy hại cho xã hội, thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, không chỉ xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế được pháp luật và Nhà nước Việt Bc bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ khả năng lao động nhưng vì tư lợi đã thực hiện hành vi mà pháp luật nghiêm cấm. Bị cáo có nhân thân xấu (bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi buôn bán hàng cấm). Do đó, khi lượng hình cần xử phạt bị cáo nghiêm để có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Khi quyết định mức hình phạt cũng thấy rằng bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo và đã tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; trong số tang vật bị phát hiệt thu giữ có một phần là do bị cáo còn để ở nhà xe nhưng đã tự khai báo vào giao nộp nên được coi là tự thú; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn và là lao động chính trong gia đình; đã nộp một phần tiền thu lợi bất chính. HĐXX xem đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sợ theo điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6] Từ những phân tích nêu trên, HĐXX thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, không có tình tiết tăng nặng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ; bị cáo tuy đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng đến ngày phạm tội đã hết thời hạn được coi là đã bị xử phạt vi phạm hành chính nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cần áp dụng hình phạt tiền để xử phạt là phù hợp với hành vi, tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo. Khi quyết định hình phạt thấy bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo đã nộp lại số tiền thu lợi bất chính và bị cáo có hướng khắc phục, sửa chữa lỗi lầm nên chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo với mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt bị truy tố và xét xử.

[7] Theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền từ 10.000.000đ đến 50.000.000đ. HĐXX nhận thấy bị cáo đã bị xử phạt hình phạt tiền là hình phạt chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[8] Về vật chứng, Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý như sau:

- Đối với số thuốc lá điếu nhập lậu hiệu HERO và JET là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy;

- Đối với chiếc xe máy bị cáo dùng để vận chuyển hàng cấm là công cụ phạm tội nên tịch thu, sung vào Ngân sách Nhà nước;

- Đối với các tài sản khác đã được xử lý trong quá trình điều tra; việc xử lý đúng quy định và không ai yêu cầu gì thêm nên không xét.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[10] Đối với hành vi của những người liên quan gồm chị Lq2, anh Lq1 không có dấu hiệu phạm tội và đã được xử lý đúng quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố: Bị cáo Dương Nhựt Bc phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Căn điểm e khoản 2 Điều 191, điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 35 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Dương Nhựt Bc số tiền 100.000.000 đồng.

2- Về biện pháp tư pháp: căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý như sau:

+ Tịch thu, tiêu hủy: 1.000 bao (Một nghìn bao) thuốc lá điếu nhập lậu hiệu JET và 2.510 bao (Hai nghìn năm trăm mười bao) thuốc lá điếu nhập lậu hiệu HERO;

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước: 01 (Một) xe mô tô hiệu Yamaha, loại Jupiter, biển kiểm soát 68M7 - 7553.

(Các vật chứng được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Minh theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 14/QĐ-VKS-AM ngày 04-5- 2022 của VKSND huyện An Minh).

3- Về án phí, căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Dương Nhựt Bc chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4- Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 20-7- 2022)./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2022/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:37/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;