Bản án 37/2022/HS-ST về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 37/2022/HS-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 22 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 35/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Văn T, sinh năm 1980 tại: Đồng Tháp; nơi cư trú: Thôn S1, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1949; vợ là Nguyễn Thị Anh H, sinh năm 1988, có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”: Có mặt.

2. Họ và tên: Đoàn Văn H, sinh năm 1988 tại Đồng Tháp; nơi cư trú: Thôn S1, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Công H1, sinh năm 1951 và bà Lê Thị M, sinh năm 1956; vợ là La Kim Đ, sinh năm 1988, có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 04/02/2022 đến ngày 13/02/2022. Hiện đang bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”: Có mặt.

3. Họ và tên: Nguyễn Phi C, sinh năm 1988 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Thôn 4, xã G, huyện T, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H3(đã chết) và bà Trương Thị H4, sinh năm 1958; vợ là Nguyễn Thị Kim T2, sinh năm 1994, có 02 người con; lớn nhất sinh năm 2012; nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền sự: Không.

Tiền án: Tại bản án số 78/2017/HSST, ngày 14/7/2017 Tòa án nhân dân huyện X1 tỉnh Đồng Nai xử phạt 6.000.000đ. Đến ngày 04/5/2022 chấp hành xong bản án.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”: Có mặt.

4. Họ và tên: Trịnh Văn T3, sinh năm 1988 tại Thanh Hóa; nơi cư trú: Ấp 1A, xã X, huyện X1, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Rửa xe; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Văn C (đã chết) và bà Trịnh Thị T4, sinh năm 1956; vợ Nguyễn Thị Bé T5, sinh năm 1994, có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 04/02/2022 đến ngày 13/3/2022. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”: Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Nguyễn Thanh S, sinh năm 1972; Nơi cư trú: Thôn 4, xã G, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Nguyễn Thị Huyền T6, sinh năm 1988; Nơi cư trú: Khu phố 9, thị trấn Đ, huyện Đ1, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Trần Văn H, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Thôn S1, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Phạm Ngọc T7, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Thôn 2, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận: Vắng mặt.

- Huỳnh Văn T8, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Thôn 4, xã G, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Lâm Quang S, sinh năm 1985; Nơi cư trú: Thôn S1, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Huỳnh Văn H, sinh năm 1975; Nơi cư trú: Thôn 4, xã G, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Nguyễn Văn H1, sinh năm 1989; Nơi cư trú: Thôn 4, xã G, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Lý Văn H2, sinh năm 1970; Nơi cư trú: Thôn S1, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Nguyễn Phi L, sinh năm 1976; Nơi cư trú: Thôn 4, xã G, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Bùi Dũng M, sinh năm 1989; Nơi cư trú: Thôn S1, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Nguyễn Văn H3, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Thôn S1, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Nguyễn Văn C, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Thôn 4, xã G, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Nguyễn Thị Phi N, sinh năm 2003; Nơi cư trú: Thôn 4, xã G, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Lê Trường A, sinh năm 1982; Nơi cư trú: Thôn S1, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

- Nguyễn Minh Q, sinh năm 2006; Nơi cư trú: Thôn S1, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Có mặt.

Người đại diện theo pháp luật của anh Nguyễn Minh Q: Ông Nguyễn Văn C2, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn S1, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Vắng mặt.

Người làm chứng:

- Võ Văn P, sinh năm 2000; địa chỉ: Thôn S1, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Vắng mặt.

- Nguyễn Thị Kim B, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn 4, xã G, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Vắng mặt.

- Dương Thị P1, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn S1, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Vắng mặt.

- Trần Văn L, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn S1, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận: Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 45 ngày 04/2/2022 Đội cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an huyện T phối hợp với Công an xã S tiến hành kiểm tra tại khu vực rẫy cao su thuộc Thôn S1, xã S, huyện T thì phát hiện nhiều người đang tham gia đánh bạc bằng hình thức đá gà và xóc tài xỉu ăn thua bằng tiền. Khi phát hiện thấy lực lượng Công an thì tất cả bỏ chạy, Công an đã khống chế và bắt giữ được 05 người gồm: Nguyễn Thanh S; Trịnh Văn T3; Đoàn Văn Hoàng; Nguyễn Thị Phi N; Nguyễn Minh Q.

Tại hiện trường Công an đã thu giữ: 01 tấm bạt dùng để xóc tài xỉu có kích thước 01 x 02 mét; 01 cân lò xo nhãn hiệu Nhơn Hòa loại 05 kg màu xanh; 10 cuộn băng keo cao su non màu trắng; 01 cuộn dây thường dài 20 mét; 01 bộ chén bằng sứ, nắp nhựa tròn được quấn băng keo chéo màu đen; 03 con gà loại gà đá màu đỏ đen.

Thu giữ trên người Nguyễn Thanh S số tiền 10.300.000đ; thu giữ trên người Trịnh Văn T3 số tiền 23.600.000đ, 01 điện thoại di động hiệu Itel bên trong có gắn sim số 0907.691.786; thu giữ trên người Đoàn Văn H cuốn vở học sinh có ghi chép số tiền hoa hồng; thu giữ trên người Nguyễn Minh Q số tiền 1.230.000đ và thu giữ 06 xe mô tô các loại.

Qua quá trình điều tra xác định được như sau:

Ngày 31/01/2022 (tức ngày 29/12/2021 âm lịch) người có tên A và người tên N (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đến Thôn S1, xã S, huyện T để gặp Lê Văn T bạc tổ chức song bạc tại khu vực rẫy cao su thuộc Thôn S1, xã S bằng hình thức đá gà và xóc tài xỉu thắng thua bằng tiền cho những người chơi đến đặt cược để thu tiền xâu (hoa hồng) chia nhau tiêu xài thì Lê Văn T đồng ý. Để sòng bạc hoạt động A gọi thêm Đoàn Văn H; Nguyễn Phi C; Bùi Dũng M; Nguyễn Phi L; Nguyễn Minh Q; người tên M, T (hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch) tham gia cùng tổ chức sòng bạc và phân công nhiệm vụ cụ thể như sau: A là người có nhiệm vụ chuẩn bị mọi công cụ cho việc tổ chức đánh bạc và làm trọng tài; N làm nhiệm vụ cân gà; Lê Văn T là người canh gác, coi ngó sòng bạc; Nguyễn Phi C, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi L, Bùi Dũng M và M, T làm biện gà (làm nhiệm vụ chung chi tiền trong sòng bạc và thu tiền xâu tại sòng bạc); Nguyễn Minh Q là người quét dọn sân bãi và bán nước giải khác. Ngoài ra, phân công cho Đoàn Văn H làm nhiệm vụ giữ tiền xâu thu được và ghi chép sổ, đến cuối ngày sẽ tổng hợp lại và đưa cho A, T để chia tiền công cho từng người.

Hình thức đá gà ăn thua bằng tiền như sau:

Khi chủ gà mang gà đến (hoặc do C gọi đến) thì N là người trực tiếp cân gà, tùy thuộc vào số cân nặng của gà để A làm trọng tài và chủ gà sẽ đưa ra kèo để người chơi tùy chọn và đặt cược cho bên con gà nào, số tiền đặt cược không hạn chế, tùy vào số tiền của cá nhân mỗi người. Người chơi có thể cá cược trực tiếp với nhau (đà hàng sáo) hoặc thông qua biện gà. Sau khi người chơi đặt cược xong, A làm trọng tài sẽ hô để hai bên chủ thả gà ra đá, nếu con gà nào bị chết hoặc bỏ chạy thì bị xử thua. Khi có kết quả thắng thua thì người chơi bị thua sẽ đưa tiền cho người làm biện gà (người thu tiền cho chủ sòng) hoặc đưa trực tiếp cho Đoàn Văn H. Khi người chơi thắng số tiền 1.000.000đ thì biện gà sẽ thu tiền xâu là 50.000đ; đối với chủ gà và người cá cược trực tiếp với chủ gà thắng số tiền 5.000.000đ thì phải trả lại cho chủ sòng số tiền 400.000đ.

Bằng hình thức trên từ ngày 01/10/2022 đến ngày 04/02/2022 (tức từ ngày mùng 1 tết nguyên đán đến mùng 4 tết nguyên đán) tất cả đã tổ chức cho nhiều người tham gia đánh bạc bằng hình thức đá gà ăn thua bằng tiền để thu tiền hoa hồng (tiền xâu) cụ thể:

- Ngày 01/02/2022 thu được số tiền 12.800.000đ, ngày 02/02/2022 thu được số tiền 12.250.000đ. Ngày 03/02/2022 thu được số tiền 9.750.000đ. Tất cả số tiền thu trong 03 ngày (từ ngày 01/02/2022 đến ngày 03/2/2022) là 34.800.000đ H đã giao cho A và T chia cho những người tổ chức đánh bạc.

Khoảng 11 giờ ngày 04/02/2022 tiếp tục tổ chức cho những người chơi đặt cược với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 34.200.000đ và thu được số tiền xâu là 8.250.000đ, cụ thể như sau:

- Trịnh Văn T3 đem theo số tiền 19.000.000đ dùng để đánh bạc đã tham gia đặt cược 05 cặp gà; mỗi cặp từ 2.000.000đ đến 5.000.000đ, thắng được 4.600.000đ. Tổng số tiền tham gia chơi đánh bạc là 23.600.000đ.

- Nguyễn Thanh S mang theo số tiền 9.600.000đ sử dụng số tiền 3.000.000đ để đặt cược, tham gia đặt cược 01 trận thắng được số tiền 700.000đ. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 3.700.000đ.

- Nguyễn Thị Huyền T6 đem theo số tiền 3.000.000đ, sử dụng số tiền 1.000.000đ để đánh bạc; đặt cược 01 trận 1.000.000đ, thua 400.000đ. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 1.000.000đ.

- Trần Văn H mang theo số tiền 500.000đ để đánh bạc; tham gia cá cược 01 trận thua 350.000đ. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 500.000đ.

- Phạm Ngọc T7 mang theo số tiền 1.800.000đ để đánh bạc, đặt cược 01 trận thắng 800.000đ. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 2.600.000đ.

- Huỳnh Văn T8 mang theo số tiền 400.000đ để đánh bạc, đặt cược 01 trận thua 400.000đ. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 400.000đ.

- Lâm Quang S mang theo số tiền 500.000đ để đánh bạc, đặt cược 01 trận thua 350.000đ. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 500.000đ.

- Huỳnh Văn H mang theo số tiền 300.000đ để đánh bạc, đặt cược 01 trận thắng 200.000đ. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 500.000đ.

- Nguyễn Văn H1 mang theo số tiền 1.000.000đ để đánh bạc, đặt cược 02 trận thua1.000.000đ. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 1.000.000đ.

- Lý Văn H2 mang theo số tiền 400.000đ để đánh bạc, đặt cược 01 trận thua 200.000đ. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 400.000đ.

Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, trong lúc chờ chủ gà mang gà đến tiếp tục đá thì Nguyễn Phi C, Đoàn Văn H, Nguyễn Thị Huyền T6 tổ chức cho Trịnh Văn T3, Nguyễn Thị Phi N, Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn H3, Lê Trường A tham gia xóc tài xỉu ăn thua bằng tiền, bắt đầu chơi được khoảng 05 ván mỗi ván người chơi đặt cược từ 100.000đ đến 200.000đ thì bị lực lượng Công an ập vào bắt quả tang nên tất cả bỏ chạy, không thu giữ được tiền để đánh bạc.

Tại Bản cáo trạng số: 37/CT – VKSND - TL ngày 29 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Trịnh Văn T3 về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321; Đoàn Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Phi C về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T khẳng định bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với các bị cáo Đoàn Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Phi C về tội “Tổ chức đánh bạc” và Trịnh Văn T3 về tội “Đánh bạc” là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn T, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C về tội “Tổ chức đánh bạc”; Trịnh Văn T3 phạm tội “Đánh bạc”.

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 35 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo Lê Văn T: Từ 30.000.000đ đến 40.000.000đ. Đoàn Văn H: Từ 30.000.000đ đến 40.000.000đ.

Đề nghị áp dụng điểm a, đ khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 35 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo Nguyễn Phi C: Từ 40.000.000đ đến 50.000.000đ.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Trịnh Văn T3: Từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

Vật chứng đề nghị xem xét:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 cân lò xo nhãn hiệu Nhơn Hòa, loại cân 05 kg màu xanh; 10 cuộn băng keo cao su non màu trắng; 01 cuộc dây thừng dài 20m; 01 bộ chén dĩa sứ, nắp nhựa tròn được quấn băng keo đen kín xung quanh và 01 cục xí ngầu; 01 tấm bạt dùng xóc Tài – Xỉu có kích thước 01m x 02 m; 01 túi đeo chéo màu đen.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: Số tiền 35.550.000đ (ba mươi lăm triệu, năm trăm năm mươi ngàn) (số tiền thu giữ liên quan đến đánh bạc) và 3.760.000đ do các bị cáo Lê Văn T, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C tự nguyện giao nộp.

- Ý kiến của bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Không có ý kiến tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Ngọc T7, không có lý do. Tại phiên tòa, các bị cáo và đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xét xử vắng mặt anh Phạm Ngọc T7. Xét thấy: Trong quá trình điều tra đã tiến hành lấy lời khai đầy đủ của Phạm Ngọc T7. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Phạm Ngọc T7 là phù hợp với quy định tại Điều 292 BLTTHS.

[3] Về hành vi vi phạm của các bị cáo:

Căn cứ vào kết quả thẩm tra tại phiên tòa, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Cho nên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của các bị cáo như sau:

Vào ngày 31/01/2022 có một người tên A và một người tên N (không xác định được nhân thân, lai lịch) rủ Lê Văn T, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C tổ chức đánh bạc bằng hình thức đá gà ăn thua bằng tiền để thu tiền xâu. A và N phân công Lê Văn T có nhiệm vụ quan sát, canh gác sòng bạc; Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C làm nhiệm vụ “Biện gà” có nghĩa là làm nhiệm vị chung chi tiền trong sòng bạc và thu tiền xâu. Ngoài ra, Đoàn Văn H có nhiệm vụ giữ tiền xâu và ghi chép vào sổ đến cuối ngày tổng hợp lại và đưa cho A, T để chia tiền cho từng người.

Vào khoảng 12 giờ 45 ngày 04/02/2022 tại khu vực rẫy cao su thuộc Thôn S1, xã S, huyện T có các bị cáo Lê Văn T, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C đứng ra tổ chức cho khoảng mười mấy đến 30 tham gia đánh bạc bằng hình thức đá gà ăn thua bằng tiền với tổng số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc là 34.200.000đ. Trong đó, bị cáo Trịnh Văn T3 sử dụng số tiền 19.000.000đ sử dụng vào mục đích để đánh bạc.

Như vậy, các bị cáo Lê Văn T, Đoàn Văn H, Trịnh Văn T3 đều là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Thế nhưng, bị cáo Lê Văn T, Đoàn Văn H đã có hành vi tổ chức đánh bạc ăn thua bằng tiền bằng hình thức đá gà với tổng số người tham gia chơi khoảng mười mấy đến 30 người và số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc là 34.200.000đ. Cho nên, các bị cáo Lê Văn T, Đoàn Văn H phạm tội “Tổ chức đánh bạc” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 322 BLHS.

Riêng đối với bị cáo Nguyễn Phi C đã cùng Lê Văn T, Đoàn Văn H tham gia tổ chức đánh bạc và đã từng bị Tòa án nhân dân huyện X1, tỉnh Đồng Nai xử phạt 6.000.000đ về tội “Đánh bạc” tại bản án số 78/2017/HSST, ngày 14/7/2017. Đến ngày 04/5/2022 chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa tích. Thế nhưng, đến ngày 04/2/2022 bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội ‘Tổ chức đánh bạc”. Cho nên, bị cáo phạm tội “Tổ chức đánh bạc” quy định tại điểm a, đ khoản 1 Điều 322 BLHS.

Đối với bị cáo Trịnh Văn T3 có hành vi sử dụng số tiền 19.000.000đ tham gia chơi đánh bạc bằng hình thức đá gà ăn thua bằng tiền vào ngày 04/02/2022. Cho nên, bị cáo đã phạm vào tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015 (sữa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo Lê Văn T, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C, Trịnh Văn T3 không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trịnh Văn T3 lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo Đoàn Văn H, Trịnh Văn T3, Lê Văn T, Nguyễn Phi C đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Trong quá trình điều tra, các bị cáo Lê Văn T, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C đã tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính từ việc tổ chức đánh bạc. Cho nên, các bị cáo Lê Văn T, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

Xét về vai trò của các bị cáo trong vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo Lê Văn T làm nhiệm vụ canh gác sòng bạc; Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C làm nhiệm vụ “Biện gà” là vị trí trung gian để các con bạc cá cược; thu tiền xâu của các con bạc. Các bị cáo giữ vai trò thứ yếu trong vụ án.

Hội đồng xét xử xét thấy: Mặc dù, bị cáo Nguyễn Phi C có quá trình nhân thân xấu, đã từng xử phạt về hành vi đánh bạc, nhưng bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, do hiện nay vợ bị cáo đã bỏ nhà đi. Bị cáo đang là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai người con. Căn cứ vào vị trí, vai trò, nhân thân của các bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy: Không cần xử phạt tù cách ly bị cáo Lê Văn T, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C ra khỏi xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với các bị cáo này cũng đủ cải tạo, giáo dục các bị cáo là phù hợp với quy định tại Điều 35 BLHS.

Các bị cáo Đoàn Văn H, Lê Văn T vì mưu sinh nên đến sòng bạc làm để kiếm tiền lo cho gia đình; phạm tội lần đầu giữ vai trò không đáng kể trong vụ án nên cần áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS để xử phạt tiền bị cáo với mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 322 BLHS.

Đối với bị cáo Trịnh Văn T3, có quá trình nhân thân tốt; có nơi cư trú ổn định, nhưng bị cáo phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng. Cho nên, không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ; giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục cũng đủ cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt sống có ích cho xã hội là phù hợp với Điều 36 BLHS.

Bị cáo làm nghề rửa xe, có thu nhập không ổn định. Cho nên, cần miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Trịnh Văn T3 là phù hợp.

Xét thấy: Trong gia đoạn điều tra bị cáo Trịnh Văn T3 bị tạm giữ từ ngày 04/02/2022 đến ngày 13/3/2022 là 09 ngày. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 36 BLHS, quy đổi 09 ngày tạm giữ bằng 27 ngày cải tạo không giam giữ. Thời gian này được khấu trừ vào thời hạn cải tạo không giam giữ khi xử phạt đối với bị cáo Trịnh Văn T3 là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng: Hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T gồm:

- 01 tấm bạt dùng để xóc tài xỉu có kích thước 01 x 02 mét; 01 cân lò xo nhãn hiệu Nhơn Hòa loại 05 kg màu xanh; 10 cuộc băng keo cao su non màu trắng; 01 cuộn dây thừng dài 20 mét; 01 bộ chén dĩa bằng sứ, nắp nhựa tròn dược quấn băng keo đen kín xung quanh và 04 cục xí ngầu; 01 túi đeo chéo màu đen;

Xét thấy: Đây là những công cụ các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội; là những vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy phù hợp với quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

- Số tiền Việt Nam là 35.550.000đ thu giữ trên chiếu bạc.

- Số tiền 3.760.000đ do Lê Văn T, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C tự nguyện giao nộp.

Xét thấy: Đối với số tiền 35.550.000đ thu giữ của bị cáo Trịnh Văn T3 và thu giữ trên chiếu bạc là số tiền bị cáo và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan sử dụng vào mục đích đánh bạc. Đối với số tiền 3.760.000đ do các bị cáo Lê Văn T, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C tự nguyện giao nộp là số tiền do các bị cáo thu lợi bất chính từ việc tổ chức sòng bạc. Cho nên, cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước là phù hợp với quy định điểm b khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[7] Về án phí: Bị cáo Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C, Lê Văn T, Trịnh Văn T3 phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Nguyễn Thanh S, Nguyễn Thị Huyền T6, Trần Văn H, Phạm Ngọc T7, Huỳnh Văn T8, Lâm Quang S, Nguyễn Văn C, Nguyễn Thị Phi N, Lê Trường A đã có hành vi tham gia chơi đánh bạc ăn thua bằng tiền tại khu vực rẫy cao su ở Thôn S1, xã S vào ngày 04/02/2022. Thế nhưng, số tiền của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sử dụng vào mục đích đánh bạc chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” quy định tại Điều 321 BLHS. Công an huyện T đã xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp. Cho nên, Hội đồng xét xử không xét đến.

Đối với người tên A và N là những người tham gia cùng Lê Văn T, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C trong quá trình điều tra không làm rõ được họ tên đầy đủ và địa chỉ. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ. Khi nào xác định được thì sẽ xem xét xử lý sau.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh:

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 322. Riêng bị cáo Nguyễn Phi C áp dụng thêm điểm đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Phi C phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Văn T3 phạm tội “Đánh bạc”.

Về hình phạt:

Căn cứ điểm a khoản 1 điều 322; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 35;

khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Đoàn Văn H: 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng). Xử phạt bị cáo Lê Văn T: 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).

Căn cứ điểm a, đ khoản 1 điều 322; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phi C: 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng).

Căn cứ khoản 1 điều 321; điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Trịnh Văn T3: 15 (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ 27 ngày được quy đổi từ 09 ngày bị tạm giữ. Bị cáo Trịnh Văn Tỏan còn phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là 14 (mười bốn) tháng 03 (ba) ngày. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục bị cáo Trịnh Văn T3 nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã X, huyện X1, tỉnh Đồng Nai để giám sát, giáo dục.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Trịnh Văn T3.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 cân lò xo nhãn hiệu Nhơn Hòa, loại cân 05 kg màu xanh; 10 cuộn băng keo cao su non màu trắng; 01 cuộc dây thừng dài 20m; 01 bộ chén dĩa sứ, nắp nhựa tròn được quấn băng keo đen kín xung quanh và 01 cục xí ngầu; 01 tấm bạt dùng xóc Tài – Xỉu có kích thước 01m x 02 m; 01 túi đeo chéo màu đen.

(Tại biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 06/9/2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện T và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T).

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 35.550.000đ (ba mươi lăm triệu, năm trăm năm mươi ngàn) (số tiền thu giữ liên quan đến đánh bạc) và 3.760.000đ do các bị cáo Lê Văn T, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C tự nguyện giao nôp hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T (giấy ủy nhiệm chi ngày 08/9/2022 của Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T)

Về án phí:

Căn cứ vào: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Lê Văn T, Đoàn Văn H, Nguyễn Phi C, Trịnh Văn T3 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sơ thẩm, sung công quỹ Nhà nước.

Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (22/9/2022). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toàn được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. (đã giải thích quyền kháng cáo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2022/HS-ST về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc

Số hiệu:37/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;