Bản án 37/2021/HSST ngày 27/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 37/2021/HSST NGÀY 27/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 34/2021/HSST ngày 05 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo: Nguyễn Trung H; Giới tính: Nam; Sinh năm: 2000, tại Bạc Liêu; Nơi cư trú: Ấp A, xã V, huyện H, tỉnh Bạc Liêu;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa;

Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 06/12;

Cha: Nguyễn Thanh P, sinh năm 1971; Mẹ: Ngô Kim H, sinh năm 1975;

Anh, chị, em ruột: gồm 02 người, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất là bị cáo.

Tiền án: Không Tiền sự: 01 lần. Ngày 28/11/2018, Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 12 tháng, đã chấp hành xong ngày 03/01/2020.

Nhân thân: Ngày 25/9/2015 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 01 năm tù về tội cướp tài sản, đã chấp hành xong hình phạt tù, đã xóa án tích; Ngày 23/6/2016 bị Công an huyện H, tỉnh Bạc Liêu xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Ngày 11/01/2019 bị Công an Phường E, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị tạm giữ ngày 18/12/2020 đến ngày 24/12/2020 bị khởi tố bị can và chuyển tạm giam cho đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo nghiện ma túy loại Methamphetamine. Khoảng 17 giờ ngày 17/12/2020 bị cáo từ nhà tại Ấp A, xã Vĩnh Mỹ B, huyện H, tỉnh Bạc Liêu đến Phường F, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu để nhậu cùng Trương Bửu L và Trương Văn Thiện. Đến khoảng 01 giờ ngày 18/12/2020 do muốn sử dụng trái phép chất ma túy nên bị cáo H kêu Trương Bửu L hỏi mượn xe mô tô của Trương Văn Thiện để chở bị cáo đi công chuyện. Long đồng ý và mượn chiếc xe mô tô màu đen bạc biển kiểm soát 70K – 588.84 của Thiện để chở bị cáo đi công chuyện, trên đường đi bị cáo kêu Long chở đến hẻm không số, Khóm 6, Phường 7, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu để giải quyết công việc. Khi vào hẻm một đoạn bị cáo kêu Long dừng xe lại ngồi chờ, còn bị cáo đi bộ vào bên trong đến một căn nhà (không rõ địa chỉ và đặc điểm) gặp 01 người phụ nữ (không rõ nhân thân, lai lịch) để mua 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng rồi quay trở ra lên xe để Long chở về. Trên đường về vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 18/12/2020 thì bị lực lượng Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B kết hợp với Công an Phường G tuần tra phát hiện có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra và bắt quả tang và thu giữ trên tay trái bị cáo có 01 bịch nylong màu trắng hàn kín, có viền màu xanh, kích thước 1,8cm x 2,5cm, bên trong bịch nylong có chưa các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy; 01 xe mô tô biển kiểm soát 70K1- 588.84.

Tại phiếu xét nghiệm ngày 18/12/2020 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bạc Liêu xác định Nguyễn Trung H, Trương Bửu L dương tính với Methamphetamine.

Tại Kết luận giám định số: 04/KLGĐ-PC09, ngày 23/12/2020, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bạc Liêu, kết luận về đối tượng giám định: “Chất rắn dạng tinh thể bên trong gói nylon (kí hiệu M) là chất ma túy; loại Methamphetamine; có khối lượng 0,23680 gam”.

Trong quá trình điều tra bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như như đã nêu trên.

Bản Cáo Trạng số 35/CT-VKSTPBL ngày 05/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị caùo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định có trọng lượng 0,19353 gam.

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Đieàu 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Bị cáo phaûi nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã truy tố, lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất và phù hợp với lời khai khác của chính bị cáo trong giai đoạn điều tra, đồng thời phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, làm rõ tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định vào khoảng lúc 01 giờ 30 phút, ngày 18/12/2020, tại Khóm H, Phường G, thành phố B, bị cáo có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,23680 gam, thì bị bắt quả tang.

Trong quá trình điều tra bị cáo khai nhận số ma túy bị cáo tàng trữ là của bị cáo mua, nhằm mục đích để sử dụng.

Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, việc truy tố và xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, mà còn gây mấy an ninh trật tự tại địa phương. Đồng thời bị cáo có nhân thân xấu nên cần xử lý nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành một công dân có ích và cũng để răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định 0,19353 gam, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave Alpha biển kiểm soát 70K1-588.84 qua xác minh nguồn gốc phương tiện xác định ông Lê Tấn H là chủ xe hợp pháp, ông H có yêu cầu nhận lại xe, đồng thời chiếc xe trên không liên quan đến vụ án nên cơ quan Điều tra đã trả lại cho ông H là phù hợp.

[6] Các vấn đề khác: Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo ngày 18/12/2020 do không xác định được nhân thân và địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xử lý.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Trung H, Cơ quan điều tra chuyển xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trương Bửu L, Cơ quan điều tra chuyển xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Đối với Trương Bửu L khi chở bị cáo đến Khóm H, phường G, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu do không biết bị cáo đến đó để mua ma túy về sử dụng nên không có căn cứ xử lý.

[7] Đối với đề nghị của Kiểm sát viên xét thấy là có căn cứ nên được chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị tạm giữ 18/12/2020.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: Lượng ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,19353 gam còn lại sau giám định trong vụ án. (01 gói niêm phong, trên gói niên phong có chữ ký tên Nguyễn Anh D và dấu mộc tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bạc Liêu cùng dòng chữ “04/GĐ-2021” (Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,19353 gam)).

Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bạc Liêu đang quản lý, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/4/2021.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Trung H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2021/HSST ngày 27/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;