Bản án 37/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 37/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 33/2021/TLST-HS ngày 09/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2021/QĐXXST-HS ngày 13/5/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Văn T, sinh năm 1973, tại huyện K, tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: Xóm 6, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Văn P (đã chết) và bà Phạm Thị T1 (đã chết); có vợ là Lê Thị L và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1996, con nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/01/2021 đến ngày 08/01/2021 chuyển tạm giam tại trại Tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình đến nay, “Có mặt”.

- Người làm chứng:

Anh Nguyễn Văn K. “Vắng mặt”. Anh Phạm Văn L1. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Văn T là đối tượng nghiện ma túy, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên sáng ngày 06/01/2021, T đi xe đạp từ nhà đến khu vực chợ C, huyện K để tìm mua ma túy. Tại đây, T gặp một người đàn ông không quen biết hỏi và mua được 01 gói ma túy với giá là 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T cầm ở lòng bàn tay trái đi tìm nơi sử dụng. Khoảng 08 giờ 10 phút cùng ngày, T đi đến khu vực nhà văn hóa thôn M, xã X, huyện K thấy vắng người nên T lấy gói ma túy túy ra xem, thì bị tổ công tác Công an huyện K tiến hành kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ của T 01 gói nhỏ được gói bên ngoài bằng giấy bạc màu đen và tạm giữ 01 xe đạp nữ, kiểu dáng mini.

Kiểm tra gói nhỏ thu giữ của T được gói bằng nilon màu đen, bên trong là chất bột dạng cục màu trắng có khối lượng là 0,31 gam, ký hiệu M gửi đi trưng cầu giám định. Tại Bản kết luận giám định số 96/KLGĐ-PC09-MT ngày 07/01/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự công an tỉnh Ninh Bình đã kết luận: Mẫu chất bột dạng cục thu giữ của Đỗ Văn T có khối lượng 0,3113 gam là ma túy, loại Heroine.

Vật chứng còn lại của vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong ghi số 96/KLGĐ- PC09-MT và ghi chữ “mẫu vật hoàn trả sau giám định” của Phòng Kỹ thuật Hình sự công an tỉnh Ninh Bình bên trong còn 0,2248 gam Heroine trong mẫu ký hiệu M và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong có vỏ bọc ngoài gói nhỏ; vỏ phong bì niêm phong gói Heroine thu giữ khi phát hiện vi phạm của Đỗ Văn T; 01 xe đạp nữ, kiểu dáng mini, trên khung xe có chữ HIBISCUS đã cũ. Toàn bộ vật chứng đã được chuyển đến kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K quản lý.

Bản cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 06 tháng 4 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy các vật chứng còn lại của vụ án. Trả lại 01 xe đạp nữ, kiểu dáng mini cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi nêu trên và không có ý kiến gì khác, không tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K, điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố Tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, kết luật giám định số 96/KLGĐ-PC09-MT ngày 07/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình, có đủ cở sở khẳng định: Khoảng 08 giờ 10 phút ngày 06/01/2021, tại vị trí sân giáp tường phía nam nhà văn hóa thôn M, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình bị cáo Đỗ Văn T có hành vi tàng trữ 01 gói ma túy loại Heroine có khối lượng 0,3113 gam để sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật (Heroine là chất ma túy thuộc bảng danh mục I, số thứ tự 9, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ). Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) ………..;

b) ………..;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện, gây ảnh hưởng không tốt đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật bằng hình thức cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như nguyên nhân và điều kiện phạm tội:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 - Bộ luật Hình sự, nên cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo T mua ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân không mang tính chất vụ lợi. Vì vậy, không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo T khai mua ma túy của một người đàn ông không quen biết, không rõ tên tuổi, địa chỉ ở khu vực chợ C, xã X, huyện K, tỉnh Ninh Bình, do vậy không có cơ sở xác minh làm rõ.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Đối với khối lượng 0,2248 gam là ma túy, loại Heroine hoàn trả còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu trong phong bì niêm phong ghi số 96/KLGĐ-PC09-MT là vật không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy Đối với 01 chiếc xe đạp đã thu giữ, đây là phương tiện của bị cáo sử dụng hàng ngày, nên trả lại cho bị cáo. Nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[7] Về đề xuất mức án, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp của Kiểm sát viên đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 06/01/2021.

2. Xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy: Khối lượng 0,2248 gam là ma túy, loại Heroine hoàn trả còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu trong phong bì niêm phong ghi số 96/KLGĐ-PC09-MT.

Trả lại cho bị cáo: 01 xe đạp nữ, kiểu dáng mini, nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Chi tiết như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/4/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K).

3. Án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;