Bản án 37/2021/HS-PT ngày 14/05/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 37/2021/HS-PT NGÀY 14/05/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 14 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 30/2021/HSPT, ngày 19 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo Dương T H và Trần M T, do có kháng nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2021/HS-ST ngày 08/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.

Bị cáo bị kháng nghị:

1. Trần M T, sinh năm 2000, tại Vĩnh Long. Nơi cư trú: Số A, khóm T X, phường T N, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; cha: vô danh, mẹ: Trần K A; bị cáo chưa có vợ; anh chị em ruột: có 02 người, người lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo ra đầu thú rồi bi bắt tạm giữ - tạm giam từ ngày 09/8/2020 cho đến nay. Có mặt.

2. Dương T H, sinh năm 1996, tại Vĩnh Long. Nơi cư trú: Số B, khóm T T A, phường T N, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương V M và bà Đỗ T D; có vợ: Đặng N T và 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giữ - tạm giam từ ngày 08/8/2020 cho đến nay. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: bà Nguyễn T T - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Vĩnh Long bào chữa chỉ định cho bị cáo Trần M T. Có mặt.

Bị hại:

. Nguyễn M T, sinh năm:1985.

Nơi cư trú: số D, khóm B, phường A, thành phố V, tỉnh VL.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

. Dương V M, sinh năm 1963.

Nơi cư trú: Số 53, khóm Tân T A, phường T N, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 07/8/2020, Dương T H đến nhà của Trần M T bằng xe đạp, mục đích rủ T đi nhậu. Khi đến nhà T thì H gặp thêm Lê M D K, tại đây cả ba rủ nhau đi nhậu nhưng không ai có tiền nên cả ba cùng thống nhất đem giấy tờ xe của K cầm lấy tiền mua rượu nhậu. T điều khiển xe môtô biển số 64B1 - 459.36 chở H còn K đi xe một mình cùng đến nhà của bà H tại khóm 2, phường A, thành phố V để cầm giấy tờ xe, nhưng bà H không đồng ý nhận cầm do trước đó K còn nợ tiền chưa trả. Vì vậy, T, H và K ra về, K điều khiển xe môtô một mình đi trước còn T thì điều khiển xe 64B1 - 459.36 chở H đi sau.

Khi T điều khiển xe đi ra đường P H, đến đoạn cặp hông nhà số D, khóm 2, phường 9, thành phố V, lúc này ngay cạnh hông nhà ở khu vực đầu hẽm có một nhóm thanh niên gồm: Nguyễn M T, Lê Q T, Trần H N và Trần H C đang ngồi bàn nhậu, khi T điều khiển xe đi ngang qua nhóm người này thì thấy Nguyễn M T ngồi quay mặt ra đường và đưa ly bia hướng về T nên T nghĩ là T kiếm chuyện với mình. Khi vừa chạy qua 01 đoạn, T nói với H “ Thằng đó kiếm chuyện” thì H trả lời “Vậy sao, quay lại chơi nó hả” (có nghĩa là quay lại đánh T) thì T đồng ý và nói “” rồi T quay xe lại đến khu vực bàn nhậu của T, T dừng xe lại rồi lấy cây dao ( Loại dao tự chế bằng kim loại phần lưỡi dao dài 18cm, rộng 5,5cm mũi dao bầu tròn, phần cán dao bằng kim loại dài 21cm có lỗ ở cuối dao và rộng 03cm, trọng lượng cây dao là 520 gam) đưa cho H làm hung khí, dao này do T thường mang theo xe. H xuống xe tay cầm dao chỉ về phía T và hỏi T “Phải thằng này không” thì T trả lời “Đúng rồi, đúng rồi” nên ngay tức khắc H dùng dao chém nhiều nhát vào người của T, do T đang ở tư thế ngồi. Lúc này nghe có tiếng ồn ào bên ngoài nên ông Trần H P từ trong nhà chạy ra thấy H trên tay có cầm dao nên dùng ghế để đỡ làm H bị rớt cây dao xuống đất, do P biết T nên nói “Anh nè mày khùng hả T” lúc này T biết là gặp người quen nên T kêu H “Lộn người rồi” nên H ngừng tay, nhặt lại dao và lên xe để T chở về. Khi đến nhà của T thì H đưa dao cho T rồi mỗi người tự đi trốn.

Qua điều tra xác minh Cơ quan điều tra mời H về làm việc thì H thừa nhận hành vi phạm tội như nêu trên, đến ngày 09/8/2020 T đến Cơ quan điều tra đầu thú và giao nộp cây dao tự chế dùng chém bị hại cùng với xe môtô biển số 64B1 - 459.36.

Căn cứ kết luận giám định pháp y về thương tích số:

116/2000/TgT ngày 29/9/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Long kết luận thương tích của Nguyễn M T là 32%, gồm các vết thương:

+ Vết thương chẩm trái kích thước 1,5 x 0,2cm không gây cố tật, tỷ lệ 01%.

+ Vết thương vai phải 5cm và 20cm đứt gân cơ dưới vai, gãy hở mỏm cùng vai phải được phẫu thuật điều trị hiện tại sẹo kích thước 10 x 0,2cm, 4 x 0,2cm và 1,5 x 0,2cm không gây cố tật, tỷ lệ 10%.

+ Vết thương lưng trái kích thước 4 x 0,2cm không gây cố tật, tỷ lệ 01%.

+ Vết thương môi trên bên trái đến má trái dài 08 x 0,2cm, tỷ lệ 06%.

+ Gãy xương hàm trên bên trái can tốt không ảnh hưởng chức năng, tỷ lệ 10%.

+ Gãy răng 22, 23, tỷ lệ 04%.

+ Gãy răng 24, 25, tỷ lệ 03%.

+ Gãy răng 33, tỷ lệ 02%.

Đối với Lê M D K không có bàn bạc và cũng không biết H và T dùng dao chém bị hại để gây thương tích nên không xử lý đối với K.

Xe mô tô biển số 64B1 – 459.36, qua xác minh xe này T mượn của ông Đỗ L H, sinh năm 1967, cư trú: Xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long để sử dụng, ông Hồ không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Cơ quan điều tra đã trao trả xe này cho ông Hồ.

Về thu giữ, xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra Công an thành phố V đã nhập kho theo quy định đối với vật chứng như: Dao tự chế bằng kim loại phần lưỡi dao dài 18cm, rộng 5,5cm mũi dao bầu tròn, phần cán dao bằng kim loại dài 21cm có lỗ ở cuối dao và rộng 03cm, trọng lượng cây dao là 520 gam).

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn M T yêu cầu H và T cùng có trách nhiệm bồi thường chi phí điều trị và tiền tổn thất tinh thần với số tiền 80.000.000 đồng. Các bị cáo H và T thống nhất đồng ý bồi thường, hiện tại bị cáo H đã bồi thường trả cho bị hại nhận 40.000.000 đồng, còn lại bị cáo T và H chưa có điều kiện bồi thường.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2021/HS-ST ngày 08 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:

1. Tuyên bố các bị cáo Trần M T Dương T H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần M T 04 (bốn ) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày bị bắt tạm giữ - tạm giam từ ngày 09/8/2020.

- Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương T H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày bị bắt tạm giữ - tạm giam từ ngày 08/8/2020.

2. Trách nhiệm dân sự:

Áp dụng các Điều 584, 585, 587 và Điều 590 của Bộ luật Dân sự. Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận của ông Mong và bị hại, ông Dương V M bồi thường cho bị hại 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng) thay cho các bị cáo.

Ngoài ra, cấp sơ thẩm còn xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Đến ngày 22 tháng 01 năm 2021 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long ra Kháng nghị số: 01/QĐ-VKSTPVL, kháng nghị về phần hình phạt đối với các bị cáo Trần M T và Dương T H. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm vụ án nêu trên theo hướng tăng hình hình phạt tù đối với bị cáo Trần M T và Dương T H về tội “Cố ý gây thương tích”.

Tại phiên tòa phúc thẩm Kiểm sát viên, các bị cáo, bị hại, người bào chữa trình bày như sau:

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: hành vị phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến sức khỏe của người bị hại, xem thường pháp luật, thể hiện như xã hội đen. Cấp sơ thẩm áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt 2 bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là nhẹ, không tương xứng với hành vi phạm tội của 2 bị cáo. Do đó, xét thấy kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố là có căn cứ. Trên cơ sở đó, đề nghị xử phạt 2 bị cáo Trần M T và Dương T H mỗi bị cáo từ 5 năm đến 6 năm tù:

Bị cáo Trần M T từ 05 năm đến 06 năm tù. Bị cáo Dương T H từ 05 năm đến 06 năm tù.

Các bị cáo trình bày:

Bị cáo Trần M T trình bày: bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án, Bị cáo yêu cầu được giữ y mức án của bản án sơ thẩm vì bị cáo đã biết tội lỗi của bản thân, hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Trợ giúp viên pháp lý trình bày luận cứ bào chữa cho bị cáo T: bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ nguy hiểm và áp dụng mức hình phạt đã tương xứng. Bản thân bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đã ra đầu thú, thật thà khai báo. Do đó, đề nghị không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V và giữ y án sơ thẩm.

Bị cáo Dương T H trình bày: hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung vụ án. Bị cáo biết tội lỗi đã gây ra. Do đó, xin được giữ y mức án của cấp sơ thẩm.

Các bị cáo nói lời sau cùng:

Bị cáo Trần M T nói lời sau cùng: bị cáo yêu cầu giữ y án sơ thẩm.

Bị cáo Dương T H nói lời sau cùng: bị cáo yêu cầu giữ y án sơ thẩm để bị cáo sớm trở về lo cho cha già.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần M T và Dương T H khai nhận:

Khoảng hơn 19 giờ 30 phút ngày 07/8/2020 Trí điều khiển xe mô tô biển số 64B1 - 459.36 chở H, còn K đi xe một mình cùng đến nhà của bà H tại khóm 2, phường 9, thành phố V để cầm giấy tờ xe, nhưng bà H không đồng ý nhận cầm do trước đó K còn nợ tiền chưa trả. Vì vậy, T, H và K ra về, K điều khiển xe mô tô một mình đi trước còn T thì điều khiển xe 64B1 - 459.36 chở H đi sau. Khi T điều khiển xe đi ra đường P H, đến đoạn cặp hông nhà số 12D, khóm 2, phường 9, thành phố V, lúc này ngay cạnh hông nhà ở khu vực đầu hẽm có một nhóm thanh niên gồm: Nguyễn M T, Lê Q T, Trần H N và Trần H C đang ngồi bàn nhậu, khi T điều khiển xe đi ngang qua nhóm người này thì thấy Nguyễn M T ngồi quay mặt ra đường và đưa ly bia hướng về T, nên T nghĩ là T kiếm chuyện với mình. Khi vừa chạy qua 01 đoạn, T nói với H “ Thằng đó kiếm chuyện” thì H trả lời “Vậy sao, quay lại chơi nó ha” (có nghĩa là quay lại đánh T) thì T đồng ý và nói “”, rồi T quay xe lại đến khu vực bàn nhậu của T, T dừng xe lại rồi lấy cây dao đưa cho H làm hung khí. H xuống xe tay cầm dao chỉ về phía T và hỏi T “ Phải thằng này không” thì T trả lời “Đúng rồi, đúng rồi”, nên ngay tức khắc H dùng dao chém nhiều nhát vào người của T, do T đang ở tư thế ngồi, gây thương tích cho Nguyễn M T với tỷ lệ 32%.

Do đó, việc cấp sơ thẩm quy kết 2 bị cáo Trần M T và Dương T H, phạm vào tội: “Cố ý gây thương tích”, theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm nghiêm trọng đến sức khoẻ của bị hại được pháp luật Hình sự bảo vệ, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an ở địa phương. Khi bị cáo T điều khiển xe đi ngang qua bàn nhậu thì thấy Nguyễn M T ngồi quay mặt ra đường và đưa ly bia hướng về bị cáo T, bị cáo nghĩ là anh T kiếm chuyện với mình. Khi vừa chạy qua 01 đoạn, T nói với H “ Thằng đó kiếm chuyện” thì H trả lời “Vậy sao, quay lại chơi nó ha” (có nghĩa là quay lại đánh T) thì T đồng ý và nói “”, rồi T quay xe lại đến khu vực bàn nhậu dừng xe lại rồi lấy cây dao đưa cho H làm hung khí. H xuống xe tay cầm dao chỉ về phía T và hỏi T “ Phải thằng này không” thì T trả lời “Đúng rồi, đúng rồi”, nên ngay tức khắc H dùng dao chém nhiều nhát vào người của T, do T đang ở tư thế ngồi. Như vậy, phía bị hại hoàn toàn không có lỗi, các bị cáo tạo ra duyên cớ nhỏ nhặt là bị hại đưa ly bia về phía bị cáo là khiêu khích kiếm chuyện, thể hiện tính chất côn đồ của 2 bị cáo; các bị cáo sử dụng cây dao tự chế bằng kim loại phần lưỡi dao dài 18cm, rộng 5,5cm mũi dao bầu tròn, phần cán dao bằng kim loại dài 21cm có lỗ ở cuối dao và rộng 03cm, trọng lượng cây dao là 520 gam để gây thương tích cho anh T, các bị cáo dùng hung khí nguy hiểm để thực hiện hành vi phạm tội; bị cáo H dùng dao chém lúc anh T đang ngồi uống rượu bia nên không có khả năng tự vệ. Do đó, mặc dù thương tích của Nguyễn M T chỉ có 32%, nhưng có các điểm a, c và i của khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự, nên các bị cáo phạm tội thuộc trường hộp định khung hình phạt theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Do vậy cần phải có thời gian cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, để giáo dục riêng đối với các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

Trong vụ án có 2 bị cáo cùng thực hiện tội phạm, nên phân tích vai trò của từng bị cáo để cụ thể hóa hình phạt: bị cáo Trần M T là người gợi ý trước và là người đưa hung khí và xác định bị hại; trong khi đó, bị cáo Dương T H tiếp nhận ý kiến của bị cáo Trí một cách tích cực cũng là người trực tiếp dùng dao chém nhiều cái vào cơ thể bị hại; cả 2 bị cáo cùng phải chịu trách nhiệm về thương tích của bị hại và vai trò của bị cáo H cao hơn vì là người gây thương tích cho anh T, nên mức hình phạt phải cao hơn bị cáo T. Tuy nhiên, bị cáo H và Cha bị cáo có thời gian tham gia trong Quân đội, bị cáo H tác động để yêu cầu Cha là ông Dương V M bồi thường cho anh T được 40.000.000đ và cam kết tiếp tục bồi thường thay cho 2 bị cáo số tiền còn lại 40.000.000đ. Vì vậy, áp dụng mức hình phạt 2 bị cáo ngang nhau là có căn cứ.

[3] Như phân tích trên, khi quyết định hình phạt Tòa án sơ thẩm đã có xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho 2 bị cáo và xử phạt bị cáo Trần M T 04 năm 06 tháng tù, phạt bị cáo Dương T H 03 năm 06 tháng tù trong khi khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự có mức hình phạt từ 05 năm đến 10 năm. Hiện nay, loại tội phạm xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe diễn biến phức tạp; có vụ nhiều người cũng thực hiện hành vi phạm tội; Do đó, phải xử lý các bị cáo thật nghiêm khắc. Xét thấy, về hình phạt mà cấp sơ thẩm đã áp dụng của cấp sơ thẩm thì chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do các bị cáo thực hiện. Do đó, xét thấy kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, về việc đề nghị tăng hình phạt đối với 2 bị cáo là có cơ sở, để chấp nhận.

[4] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị tăng hình phạt cho 2 bị cáo phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Xét luận cứ bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Trí chỉ đưa ra các tình tiết giảm nhẹ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, nên được chấp nhận.

[5] Về án phí: do xét xử phúc thẩm theo kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, nên 2 bị cáo không chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tuyên chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát thành phố V, tỉnh Vĩnh Long, sửa phần hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2021/HS-ST, ngày 08 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.

- Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần M T 05 (năm) năm 06 tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày bị bắt tạm giữ - tạm giam từ ngày 09/8/2020.

- Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương T H 05 (năm) năm 06 tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày bị bắt tạm giữ - tạm giam từ ngày 08/8/2020.

Cả hai bị cáo đều bị xét xử về tội: cố ý gây thương tích.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2021/HS-PT ngày 14/05/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:37/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;