TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 37/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 21/5/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 112/2020/TLST- HNGĐ, ngày 07 tháng 12 năm 2020 về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2021/QĐXXST- HNGĐ, ngày 13/3/2021; quyết định hoãn phiên tòa số 24/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29/4/2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Riêu Thị C, sinh năm 1994.
- Bị đơn: Anh Khổng Văn T, sinh năm 1992.
Cùng trú tại: Thôn P, xã Đ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
(Chị C có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Riêu Thị C trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Riêu Thị C và anh Khổng Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 16/8/2011 tại Uỷ ban nhân dân (UBND) xã Đ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn hai vợ chồng cùng làm ăn sinh sống tại Thôn P, xã Đ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2019 vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã khiến cho cuộc sống chung luôn trong tình trạng căng thẳng. Nay chị xác định tình cảm không còn, không thể đoàn tụ được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Khổng Văn T.
Về con chung: Chị và anh T có 02 con chung là cháu Khổng Thị Hải Y, sinh ngày 17/7/2011 và cháu Khổng Bích N, sinh ngày 22/10/2015. Khi ly hôn chị đề nghị được quyền nuôi dưỡng, giáo dục cháu N, còn cháu Y chị muốn giao cháu cho anh T nuôi dưỡng, giáo dục và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị xác định không có, không đề nghị Toà án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh T trốn tránh, không hợp tác làm việc, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, không có văn bản trình bày ý kiến. Do đó Tòa án không lấy được lời khai và không hòa giải được.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 09/3/2021 bà Nga Thị S (Bà S là mẹ ruột của anh T) là người làm chứng trình bày:
Về thời gian kết hôn và quá trình chung sống của chị C và anh T như chị C trình bày là đúng. Khoảng 04 năm gần đây vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn cãi chửi nhau. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn cụ thể bà không nắm rõ, anh T và chị C cũng sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Anh T hiện nay đang đi làm ăn xa nhưng vẫn về nhà thường xuyên để chăm sóc các con (Anh T thường xuyên đi làm về trong ngày, sáng sớm đi làm và tối muộn về nhà) . Anh T làm việc cụ thể tại đâu, địa chỉ như thế nào thì bà không nắm rõ.
Về việc giao nuôi con chung theo bà nên giao cho mỗi người nuôi một cháu là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của cả hai anh chị.
Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương phát biểu quan điểm: Toà án đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn sơ thẩm về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Riêu Thị C, xử cho chị Riêu Thị C được ly hôn với anh Khổng Văn T. Giao cháu Khổng Thị Hải Y, sinh ngày 17/7/2011 cho anh Khổng Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu Khổng Bích N, sinh ngày 22/10/2015 cho chị Riêu Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự không có tranh chấp nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị C và anh T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1, Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Chị Riêu Thị C và anh Khổng Văn T đều đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện đang sinh sống tại thôn P, xã Đ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Vì vậy, căn cứ khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương.
[3] Anh T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.
[4] Về yêu cầu ly hôn của chị Riêu Thị C, HĐXX nhận định: Căn cứ kết quả xác minh tại chính quyền địa phương nơi cư trú của chị C và anh T xác định: Chị C và anh T kết hôn vào năm 2011. Sau khi kết hôn, anh chị làm ăn sinh sống tại thôn P, xã Đ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đến năm 2019 vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn. Bản thân chị C cũng xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể quay lại đoàn tụ được.
Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa chị C và anh T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị C là chính đáng và có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[5] Về việc giao nuôi con chung khi ly hôn, HĐXX nhận định: Qúa trình giải quyết ly hôn chị C đề nghị được quyền nuôi dưỡng, giáo dục cháu Khổng Bích N, sinh ngày 22/10/2015, còn cháu Khổng Thị Hải Y, sinh ngày 17/7/2011 chị muốn giao cháu cho anh T nuôi dưỡng, giáo dục. Cháu Khổng Thị Hải Y cũng có nguyện vọng muốn được ở cùng với anh Khổng Văn T. Mặc dù anh T đi làm xa nhưng vẫn thường xuyên về nhà để chăm sóc con. Do đó, căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 giao cháu Khổng Bích N, sinh ngày 22/10/2015 cho chị Riêu Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu Khổng Thị Hải Y, sinh ngày 17/7/2011 cho anh Khổng Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.
[6] Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Chị C xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[7] Về án phí: Chị Riêu Thị C phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Khổng Văn T không phải nộp án phí.
[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án,
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Riêu Thị C về việc Kiện Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn đối với anh Khổng Văn T.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Riêu Thị C được ly hôn với anh Khổng Văn T.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu Khổng Bích N, sinh ngày 22/10/2015 cho chị Riêu Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu Khổng Thị Hải Y, sinh ngày 17/7/2011 cho anh Khổng Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Riêu Thị C phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004060 ngày 07 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Anh Khổng Văn T không phải nộp án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 37/2021/HNGĐ-ST ngày 21/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 37/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về