Bản án 37/2020/HS-ST ngày 30/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 37/2020/HS-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 25/2020/TLST- HS ngày 22 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2020/QĐXXST- HS ngày 17/7/2020 đối với bị cáo:

Trần Minh Th, sinh năm 1997 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Thôn Thuận T, xã Thuận H, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá:

09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh Ng và bà Trần Thị Th (đã chết); bị cáo chưa có vợ con; Bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2017; tiền án: Không; tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 16/8/2017, Công an huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông xử phạt hành chính 750.000 đồng về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy” đến nay Th chưa nộp phạt. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/12/2019 chuyển tạm giam từ ngày 19/12/2019. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện Đắk Song đến nay – có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Văn T, sinh năm 1991 – Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Thuận Tr, xã Thuận H, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông.

2. Đào Xuân D, sinh năm 1987 - Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Thuận Tr, xã Thuận H, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông.

1. Trần Thanh Ng, sinh năm 1978 – Có mặt Địa chỉ: Thôn Thuận Tì, xã Thuận H, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông.

Người làm chứng:

3. Nguyễn Thị H, sinh năm 1993 – Vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ dân phố C, thị trấn Đức A, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 13/12/2019, Trần Minh Th điều khiển xe mô tô BKS: 68E1 – 346.19 đến gặp đối tượng tên Q (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại xã Nâm N’Jang, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông mua ma túy của Q với số tiền 6.000.000 đồng. Q đồng ý và bán cho Th 03 gói ma túy đựng trong 01 tờ giấy trắng, 01 tờ giấy bạc và 01 tờ giấy vở ô ly. Sau đó Th cất các gói ma túy vào túi ngoài phía dưới áo khoác màu đen đang mặc, điều khiển xe mô tô đi về thị trấn Đức An, huyện Đắk Song. Một lúc sau, Nguyễn Văn T, sinh năm 1991, trú tại thôn Thuận Tr, xã Thuận H, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông gọi điện thoại cho Th hỏi mua ma túy với số tiền 300.000đ thì Th đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe mô tô chở Đào Xuân D, sinh năm 1987, trú tại thôn Thuận Tr, xã Thuận H, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông đi mua ma túy của Th. Khi T và D đang đứng mua bơm kim tiêm tại tiệm thuốc tây gần chợ huyện Đắk Song, thì Th đi ngang qua. Lúc này, Th điều khiển xe mô tô đi về hướng xã Nam Bình. Thấy vậy, T điều khiển xe mô tô theo sau, khi đến trước quán cà phê Thiên Đường thuộc tổ 2, thị trấn Đức An, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông, thì hai xe đi song song với nhau, T đưa cho Th số tiền 300.000đ, Th cầm 01 gói ma túy trong tờ giấy vở ô ly bằng tay trái đưa cho T. Sau đó, Th điều khiển xe mô tô đi về quán bánh canh của chị Nguyễn Thị H tại tổ C, thị trấn Đức A, huyện Đắk Song để ăn bánh canh. Khi Th vào quán cởi áo khoác có chứa chất ma túy bên trong treo vào ghế, ngồi xuống thì bị lực lượng Công an huyện Đắk Song bắt quả tang, thu giữ: 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục; 01 ví da màu đen và số tiền 2.010.000đ; 01 cân tiểu ly điện tử màu đen hiệu AMPUT; 01 xe mô tô BKS: 68E1 – 346.19.

Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Minh Th tại thôn Thuận T, xã Thuận H, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông, thu giữ 01 lưỡi dao lam đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 90/KLMT – PC09 ngày 19/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông, kết luận.

- Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói giấy màu trắng (dạng giấy vệ sinh), thu giữ của Th là ma túy, có khối lượng mẫu là 4,0831 gam là Hêrôin. Hoàn lại sau giám định là 3,3420gam.

- Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói giấy màu trắng (dạng giấy bạc), thu giữ của Th là ma túy, có khối lượng mẫu là 0,1162 gam là Hêrôin. Hoàn lại sau giám định là 0,0674 gam.

Tại bản cáo trạng số 28/CT-VKS-ĐS ngày 20/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song đã truy tố bị cáo Trần Minh Th về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Trần Minh Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm r, s khoản 1 Điều 51 BLHS;

Xử phạt bị cáo Trần Minh Th từ 3 năm 6 tháng đến 4 năm 6 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 13/12/2019.

Về vật chứng của vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 3,4094gam hêrôin (sau giám định) đã thu được của Th; 01 lưỡi dao lam đã qua sử dụng; 01 gói giấy màu trắng; 01 gói giấy bạc; 01 cân tiểu ly điện tử màu đen hiệu AMPUT. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 300.000 đồng là tiền Th có được từ việc bán ma túy.

Đề nghị trả lại 01 ví da màu đen cho Trần Minh Th là chủ sở hữu hợp pháp; tạm giữ số tiền 1.710.000đồng của Trần Minh Th để đảm bảo việc thi hành bản án.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra trả lại 01 xe mô tô BKS: 68E1- 346.19 cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Trần Thanh Ng Bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Thanh Ng không có ý kiến gì. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có ý kiến thay đổi lời khai về phần liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự(BLTTHS). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là khách quan phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và chứng cứ, tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử (HĐXX) đã có đủ căn cứ xác định: Bị cáo Trần Minh Th là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích thu lợi bất chính nên vào khoảng 10 giờ ngày 13/12/2019, Trần Minh Th mua ma túy của đối tượng tên Q (chưa rõ nhân thân, lai lịch) với số tiền 6.000.000đồng. Sau đó, Th đi về tổ 2, thị trấn Đức An, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông bán cho Nguyễn Văn T 01 gói ma túy với giá 300.000đ nhằm mục đích kiếm lời. Sau đó, Th bị lực lượng công an bắt quả tang thu giữ 4,1993gam Hêrôin. Như vậy, hành vi trên của bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2… ...” Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền, quản lý Nhà nước về chất ma túy, làm mất trật tự an ninh tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, gây nhiều hậu quả xấu cho xã hội. Bị cáo nhận thức được sự nguy hiểm của Herôin nhưng bị cáo vì muốn hưởng lợi từ việc bán ma túy và có ma túy để sử dụng nên bị cáo đã bán ma túy cho đối tượng T. Vì vậy, hành vi của bị cáo HĐXX xét thấy cần phải có mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

[4] Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu cụ thể ngày 16/8/2017, bị Công an huyện Đắk Song ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo chưa chấp hành. Tại phiên tòa bị cáo khai bị cáo chưa nhận được quyết định xử phạt hành chính, tại biên bản xác minh ngày 16/01/2020 tại kho bạc Nhà nước huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông thể hiện bị cáo chưa đóng tiền xử phạt vi phạm hành chính. Sau khi ra Quyết định xử phạt, cơ quan có thẩm quyền cũng không tiến hành cưỡng chế thi hành án và bị cáo cũng không trốn tránh việc thi hành đối với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã ban hành theo quy định tại các Điều 86,87,88 Luật xử phạt vi phạm hành chính. Như vậy, căn cứ vào Điều 74 của Luật xử phạt vi phạm hành chính thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp này đã hết thời hiệu nên việc chưa chấp hành của bị cáo không được xem là tiền sự mà có nhân thân xấu.

[5] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan tố tụng cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tại cơ quan điều tra bị cáo tự khai ra các hành vi phạm tội trước đó nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) quy định tại các điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (BLHS).

[6] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng khoản 1 Điều 251 của BLHS; điểm s, r khoản 1 Điều 51 của BLHS. Xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ. HĐXX xét thấy mức đề nghị mà vị đại diện Viện kiểm sát đề ra là phù hợp nên cần chấp nhận.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình của bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có thu nhập chính (có xác nhận của chính quyền địa phương) nên HĐXX xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Đối với đối tượng tên Q đã bán ma túy cho Trần Minh Th tại xã Nâm N’Jang, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông, cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng chưa có kết quả, nên đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với hành vi mua ma túy về sử dụng của các đối tượng Nguyễn Văn T, Đào Xuân D, Trần Minh Th, cơ quan Công an huyện Đắk Song đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, mỗi đối tượng số tiền 750.000đ nên cần chấp nhận.

[10] Về vật chứng của vụ án: HĐXX xét thấy cần áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS .

Tịch thu, tiêu hủy: Số ma túy tang vật vụ án thu giữ của bị cáo còn lại sau khi giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành, 01 cân điện tử màu đen hiệu AMPUIT đã qua sử dụng.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước với số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) là tiền do bị cáo có được từ việc mua bán trái phép chất ma túy được trừ vào số tiền 2.010.000đồng (Hai triệu không trăm mười nghìn đồng) tạm giữ của bị cáo, số tiền còn lại tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Sau khi thi hành xong tất cả các khoản nghĩa vụ thi hành án số tiền còn lại sẽ trả cho bị cáo.

Trả lại 01 ví da màu đen cho Trần Minh Th là chủ sở hữu hợp pháp.

Chiếc xe mô tô thu giữ trong vụ án là tài sản hợp pháp của ông Trần Thanh Ng, sinh năm 1978 (bố của bị cáo), trú tại thôn Thuận T, xã Thuận H, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông. Việc bị cáo lấy xe đi mua ma túy thì ông Ng không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên Cơ quan cảnh sát điều tra (CSĐT) công an huyện Đắk Song đã trả lại xe cho ông Ng theo quy định của pháp luật (Theo biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu) ngày 24/12/2019 là phù hợp nên chấp nhận.

[11] Về án phí hình sự: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến mình theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Minh Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Trần Minh Th: 03(ba) năm 06(sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 13/12/2019.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Minh Th.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a,b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 3,4094 gam hêrôin (sau giám định), 01 mảnh giấy bạc và 01 mảnh giấy trắng được niêm phong theo bản kết luận giám định số 90/KLMT – PC09 ngày 19/12/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông đã thu được của Th được hoàn lại sau khi giám định, 01 lưỡi dao lam đã qua sử dụng; 01 cân tiểu ly điện tử màu đen hiệu AMPUIT, đã qua sử dụng.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước với số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) là tiền do bị cáo có được từ việc mua bán trái phép chất ma túy được trừ vào số tiền 2.010.000đồng(Hai triệu không trăm mười nghìn đồng) tạm giữ của bị cáo, số tiền còn lại tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Sau khi thi hành xong tất cả các khoản nghĩa vụ thi hành án số tiền còn lại sẽ trả cho bị cáo.

Trả lại 01 ví da màu đen cho Trần Minh Th là chủ sở hữu hợp pháp.

(Đặc điểm vật chứng và số tiền đã giao theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đắk Song ngày 25/5/2020).

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra trả lại 01 xe mô tô BKS: 68E1- 346.19 cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Trần Thanh Ng.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 3; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Trần Minh Th phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2020/HS-ST ngày 30/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;