Bản án 37/2020/HS-ST ngày 15/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Q, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 37/2020/HS-ST NGÀY 15/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 15 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Lô Văn L, sinh ngày 12 tháng 3 năm 1994, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Bản X, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lô Văn L1 và bà Ngân Thị M; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/3/2020 đến nay, có mặt.

Lữ Văn S, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1995, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Bản X, xã Ch, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lữ Văn Th và bà Hà Thị M; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/3/2020 đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Tr, chức vụ: Trợ giúp viên trợ giúp pháp lý chi nhánh số 2 - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 10 phút ngày 01/3/2020, Lô Văn L trú tại bản x, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An đi đến nhà Lữ Văn S (người trú cùng bản với Lô Văn L) nhằm rủ S cùng đi lên huyện Q, tỉnh Nghệ An để mua Heroine về sử dụng thì S đồng ý. Sau đó L điều khiển xe mô tô chở theo S đi đến bản Th, xã M, huyện Q để tìm mua Heroine, lúc đi đến khu vực ngã ba Bản Th thì thấy một người đàn ông đứng bên cạnh đường, L dừng xe lại rồi đi đến gặp người đàn ông đó còn S thì đứng bên cạnh xe để chờ L. Khi gặp người đàn ông L hỏi: “có biết nơi nào mua được Heroine không”, người đàn ông trả lời: “có”, nghe người đàn ông nói biết nơi mua heroine, Lô Văn L liền đưa cho người đàn ông đó số tiền 100.000 đồng, nhận tiền xong người đàn ông đó đi khoảng 10 phút rồi đưa về cho L một gói Heroine được bọc bằng mảnh ly lông màu trắng, L cầm lấy gói Heroine và quay trở lại chỗ S đang chờ, còn người đàn ông đó đi vào phía trong Bản Th. Khi đến nơi S đang chờ L nói: Mua được Heroine rồi đồng thời đưa gói Heroine mới mua được cho S và nói Cất đi để về sử dụng, nghe L nói xong S cầm gói heroine bỏ vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô chở L để về nhà. Khi cả 2 đến cổng Trung tâm y tế huyện Q thì bị tổ tuần tra kiểm soát giao thông Trạm cảnh sát giao thông Diễn Châu Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ 01 gói heroin có khối lượng là 0,23 gam; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, số loại EXCITER biểm kiểm soát 99E1-129.11.

Kết luận giám định số 338/KL-PC09 (Đ2 - MT), ngày 04/3/2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lô Văn L và Lữ Văn S gửi tới giám định là chất ma túy (Heroine). Chất bột màu trắng 01 (một) gói thu giữ của Lô Văn L và Lữ Văn S có khối lượng là 0,23 gam (không phẩy hai mươi ba gam).

Tại phiên tòa Lô Văn L và Lữ Văn S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Bản cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 19/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An truy tố Lô Văn L và Lữ Văn S về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Lô Văn L và Lữ Văn S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Lô Văn L và Lữ Văn S từ 12 đến 18 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có tài sản gì lớn.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ một phong bì thư bưu điện niêm phong dán kín bên trong có 0,13 gam heroine còn lại sau giám định, mảnh ni lông màu trắng và vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu của Lô Văn L và Lữ Văn S.

Người bào chữa không tranh luận về tội danh và đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, xử phạt các bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Bị cáo Lô Văn L và Lữ Văn S thấy hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là sai, xin hội đồng xét xử cho mức án nhẹ nhất để sớm về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa Lô Văn L và Lữ Văn S thừa nhận 0,23 gam heroine bị Công an huyện Q thu giữ là của các bị cáo đã mua vào chiều ngày 01/3/2020 để về sử dụng như bản cáo trạng truy tố là đúng. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai có tại hồ sơ, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Q lập hồi 17 giờ 20 phút ngày 01/3/2020; phù hợp kết luận giám định “Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lô Văn L và Lữ Văn S gửi tới giám định là ma túy (heroine), có tổng khối lượng là 0,23 gam”. Sự phù hợp thống nhất của các chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận Lô Văn L và Lữ Văn S đã tàng trữ trái phép 0,23 gam heroine nên phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết nhân thân, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, mà còn làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, nòi giống của con người, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng. Đối với Lô Văn L vừa là người khởi xướng, người trực tiếp bỏ tiền, trực tiếp mua ma túy, tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thần khẩn đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần xét xử mức án cao hơn bị cáo Lữ Văn S; đối với Lữ Văn S là người trực tiếp cất giấu trái phép chất ma túy nên cũng phải chịu trách nhiệm hình sự với toàn bộ số lượng ma túy đã thu giữ. Vì vậy, cần xét xử nghiêm và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên sau khi phạm tội các bị cáo khai báo thành khẩn đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q đề nghị xử phạt các bị cáo Lô Văn L và Lữ Văn S từ 12 đến 18 tháng tù; người bào chữa đề nghị xử phạt các bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa là hợp lý.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có việc làm ổn định, thu nhập thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, không có tài sản đáng giá. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Một phong bì thư bưu điện niêm phong dán kín bên trong có 0,13 gam heroine, mảnh ni lông màu trắng và vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, số loại EXCITER biểm kiểm soát 99E1-129.11 không liên quan đến hành vi phạm tội, cơ quan điều tra trả lại cho chị Lô Thị Nam, nay không yêu cầu gì nên miễn xét.

[7] Đối với người bán ma túy cho Lô Văn L, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Q sẽ tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[8] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Lô Văn L và Lữ Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Lô Văn L 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 01 tháng 3 năm 2020.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Lữ Văn S 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 01 tháng 3 năm 2020.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư bưu điện niêm phong dán kín bên trong có 0,13 gam heroine còn lại sau giám định, mảnh ni lông màu trắng và vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu của các bị cáo Lô Văn L và Lữ Văn S.

(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận giữa Công an huyện Q và Chi cục thi hành án dân sự huyện Q ngày 20/4/2020).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Lô Văn L và Lữ Văn S phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có quyền kháng cáo đối với bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2020/HS-ST ngày 15/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Phong - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;