Bản án 37/2020/HNGĐ-PT ngày 23/12/2020 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 37/2020/HNGĐ-PT NGÀY 23/12/2020 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN

Ngày 23 tháng 12 năm 2020 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 35/2020/TLPT-HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2020 về việc tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.

Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 15/2020/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh Thái Nguyên bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 40/2020/QĐXX-PT ngày 07 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lý Thị T, sinh năm 1991. HKTT: Thôn Đ, xã CH, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Ma Văn H, sinh năm 1983.

HKTT: Xóm KC, xã YT, huyện PL, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt).

3. Người kháng cáo: Anh Ma Văn H là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai khai nguyên đơn chị Lý Thị T khai: Chị và anh Ma Văn H trước đây là vợ chồng, sau đó đã ly hôn tại Quyết định thuận tình ly hôn số 39/2020/QĐST-HNGĐ ngày 12/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh Thái Nguyên. Chị và anh H có 01 con chung, theo Quyết định thuận tình ly hôn trên thì anh H là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Ma Bảo N, sinh ngày 14/10/2017. Qua một thời gian, chị và họ hàng nhận thấy anh H không đủ khả năng để chăm sóc con chung. Anh H hiện không có việc làm, lại thường xuyên bỏ bê, không trông nom, chăm sóc con chu đáo, thậm chí để con bị gãy tay. Về điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng con, chị T thấy mình có đủ điều kiện để nuôi con hơn anh H. Hiện nay chị ở nhà làm nông nghiệp, chị được bố mẹ cho 1.092m2 đất ruộng hiện nay chưa làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất nhưng chị đã canh tác trồng lúa, 02 vụ/năm, thu nhập khoảng 6.000.000 đồng/tháng. Ngoài ra chị sống cùng bố mẹ đẻ nên được ông bà cũng hỗ trợ, giúp chị trong việc chăm sóc, đưa đón con đi học hàng ngày. Nhà chị cũng ở gần trường học nên thuận tiện cho việc đưa đón con. Do đó, chị khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung từ anh H sang cho chị và chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Bị đơn anh Ma Văn H khai: Anh nhất trí với quan điểm của chị T về thời điểm ly hôn và thỏa thuận người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Tuy nhiên, anh không nhất trí với quan điểm của chị T về việc anh không đủ khả năng chăm sóc con chung. Tại Quyết định thuận tình ly hôn số 39/2020/QĐST-HNGĐ ngày 12/5/2020, anh chị đã thỏa thuận, anh H là người trực tiếp nuôi con, anh vẫn đang làm tốt trách nhiệm của mình. Bản thân chị T hiện nay chưa có tài sản riêng, chưa có công ăn việc làm ổn định. Chị hiện chỉ sống chung với bố mẹ đẻ chứ không có nhà riêng. Anh hiện nay đã có nhà riêng, có đất đai để trồng rừng, làm nông nghiệp. Anh quản lý toàn bộ đất đai diện tích khoảng hơn 7.000m2 của bố mẹ để lại, không có tranh chấp với ai. Tổng thu nhập hàng tháng của anh khoảng 5.000.000 đồng.

Việc chị T cung cấp hình ảnh (05 bản ảnh) trang mạng xã hội facebook mang tên “H H” là trang facebook cá nhân của anh, đăng tải hình ảnh và video con bị gẫy tay là đúng sự thật. Nguyên nhân con anh gẫy tay là do cháu tự ngã khi đứng dậy vào ngày 12/5/2020.Thời điểm đó anh không có mặt tại nhà, sau đó anh cũng đã đưa cháu đi chụp chiếu, bó bột tại bệnh viện đa khoa huyện PL. Hiện nay, cháu đã khỏi hoàn toàn, không bị di chứng gì. Còn các dòng trạng thái tâm trạng khác về nội dung anh có khó khăn trong việc nuôi con như hết gạo ăn, anh công nhận do chính bản thân anh đăng tải. Mục đích anh đăng tải chỉ là thu hút lượt thích, lượt theo dõi, bình luận của bạn bè trên mạng xã hội chứ không phải anh gặp khó khăn gì trong việc nuôi con.

Với nội dung trên, tại bản án số 15/2020/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh Thái Nguyên đã xét xử và quyết định: Căn cứ vào Khoản 3 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39:

các Điều 147, 227, 266, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

Về con chung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Giao cháu Ma Bảo N, sinh ngày 14/10/2017 cho chị Lý Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu N trưởng thành đủ 18 tuổi. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Ma Văn H do chị Lý Thị T không yêu cầu. Anh Ma Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 13/10/2020 bị đơn anh Ma Văn H có đơn kháng cáo, không đồng ý với quyết định của Tòa án sơ thẩm, do anh thấy chị T thực tế không có đủ điều kiện nuôi và chăm con như lời khai. Anh yêu cầu Tòa án phúc thẩm giải quyết lại giao cho anh được quyền nuôi con.

Tại phiên tòa phúc thẩm, anh H giữ nguyên nội dung kháng cáo. Chị T không nhất trí kháng cáo của anh H.

Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát phát biểu sự tuân theo pháp luật của thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự. Bác yêu cầu kháng cáo của bị đơn anh Ma Văn H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành huyện PL, tỉnh Thái Nguyên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:

[1.] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của anh Ma Văn H làm trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2.] Về nội dung: Xét kháng cáo của anh H về đề nghị được trực tiếp nuôi con chung Hội đồng xét xử thấy rằng:

Chị T và anh H trong quá trình chung sống có một con chung là cháu Ma Bảo N, sinh ngày 14/10/2017. Theo các tài liệu trong hồ sơ và lời khai của chị T, anh H tại phiên tòa phúc thẩm thể hiện:

Về điều kiện chăm sóc giáo dục con chung: Anh H và chị T đều có đủ điều kiện để chăm sóc giáo dục con chung. Tuy nhiên, cháu Ma Bảo N là con gái tính đến thời điểm xét xử phúc thẩm cháu N mới 03 tuổi, hai tháng. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế, điều kiện chăm sóc, giáo dục con chung của các bên và giao cho chị T trực tiếp chăm sóc, giáo dục con Ma Bảo N, sinh ngày 14/10/2017 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác là phù hợp.

Tại phiên tòa phúc thẩm anh H cho rằng chị T không đủ điều kiện để chăm sóc con chung nhưng không có căn cứ chứng minh. Vì vậy, yêu cầu kháng cáo của anh H đề nghị được nuôi con chung, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tại phiên tòa là có căn cứ.

Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên anh H phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự:

Không chấp nhận đơn kháng cáo của anh Ma Văn H, giữ nguyên bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 15/2020/HNGĐ -ST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh Thái Nguyên.

Áp dụng vào các Điều 28, 35, 39, 147, 235, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; Tuyên xử:

1. Về con chung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Giao cháu Ma Bảo N, sinh ngày 14/10/2017 cho chị Lý Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu N trưởng thành đủ 18 tuổi. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Ma Văn H do chị Lý Thị T không yêu cầu. Anh Ma Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2. Về án phí: Chị Lý Thị T phải chịu 300.000 đồng ( Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004124 ngày 23 tháng 6 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện PL, tỉnh Thái Nguyên.

Anh Ma Văn H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện PL, tỉnh Thái Nguyên, theo biên lai thu số 0004203 ngày 20/10/2020.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

392
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2020/HNGĐ-PT ngày 23/12/2020 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn

Số hiệu:37/2020/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;