TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 37/2019/HS-ST NGÀY 26/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 26 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:
Lê Hoàng P; sinh năm: 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: ấp N, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Hoàng V và bà: Phạm Thị Mỹ L; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị bắt giữ ngày: 04/12/2018; tạm giữ ngày: 04/12/2018; tạm giam ngày: 06/12/2018. (Bị cáo có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 04/12/2018, Lê Hoàng P điều khiển xe môtô biển số 60AC-004.13 chở bạn là Nguyễn Minh H đi trên đường. Khi đến trước số 88 đường Thành Thái, Phường 12, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thì P bị Tổ tuần tra Công an Quận 10 tiến hành kiểm tra hành chính và thu giữ trong túi áo khoác bên trái của P 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu (P khai là ma túy tổng hợp). Vụ việc được Công an Phường 12, Quận 10 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.
Tại Kết luận giám định số 135/KLGĐ-H ngày 12/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3797 gram, loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra: Lê Hoàng P khai số ma túy trên do P mua của đối tượng tên C (không rõ lai lịch, địa chỉ) vào lúc 09 giờ 00 ngày 04/12/2018 tại xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh với giá 200.000 đồng để sử dụng. Bản thân P bị nghiện ma túy từ năm 2016.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố, điều tra đối với Lê Hoàng P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Đối với Nguyễn Minh H: Việc P tàng trữ số ma túy trên, Hiếu không biết, nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 không xử lý trách nhiệm hình sự.
Riêng đối tượng tên C (không rõ lai lịch, địa chỉ), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 tiếp tục truy xét, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
Đối với 01 xe môtô biển số 60AC-004.13; số khung: RRKWCH1UM5X-008274; số máy: VTTJL1P52FMH-008274; theo Lê Hoàng P khai chiếc xe trên do P mua của đối tượng C với giá 1.000.000 đồng nhưng P chưa trả tiền. Qua xác minh, biển số 60AC-004.13 được cấp cho xe môtô có số khung: 55113, số máy: 05513 do chị Nguyễn Thị Bích P1 đứng tên chủ sở hữu. Hiện chị P1 vẫn đang sử dụng chiếc xe trên, quá trình sử dụng chiếc xe không bị mất bộ phận nào. Theo kết quả tra cứu tại Phòng Cảnh sát giao thông Công an Thành phố Hồ Chí Minh, chiếc xe có số khung: RRKWCH1UM5X-008274; số máy: VTTJL1P52FMH-008274 không có trong cơ sở dữ liệu. Hiện Công an Quận 10 đang tạm giữ lại, cùng với 01 điện thoại di động hiệu Nokia có số thuê bao: 0793429298 (Lê Hoàng P khai dùng để liên lạc với C để mua ma túy về sử dụng), 01 áo khoác.
Tại bản Cáo trạng số 32/CT-VKS ngày 14 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố: Lê Hoàng P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa hôm nay:
- Bị cáo Lê Hoàng P đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải); đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo: Lê Hoàng P từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, phạt bổ sung đối với bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý các vật chứng theo đúng quy định của pháp luật.
- Ý kiến của bị cáo: Không có ý kiến gì tranh luận.
- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà các bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình; qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của người làm chứng, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, bản kết luận giám định về ma túy, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Lê Hoàng P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Ma túy là mối hiểm họa cho gia đình và xã hội, nó đã lây lan và phát triển một cách nghiêm trọng, làm suy đồi và băng hoại nhân cách con người, là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tội phạm hình sự khác; trong khi chính quyền nhân dân các cấp đang ra sức thực hiện mục tiêu 3 giảm: “Giảm ma túy, giảm mại dâm, giảm tội phạm”; nhưng bị cáo đã đi ngược lại mục tiêu chung trên, cụ thể: Bị cáo đã cất giữ trái phép: 0,3797 gam loại Methamphetamine, nhằm mục đích để sử dụng, chiếu theo danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành theo Nghị định số: 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ thì đó là chất ma túy ở thể rắn, nên bị cáo bị xét xử theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa phương.
Về tình tiết tăng nặng: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo; đồng thời miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo do mới bị kết án lần đầu.
[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:
Về vật chứng:
Đối với: 01 gói được niêm P (bên trong có chứa tinh thể không màu, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra), 01 xe môtô biển số 60AC-004.13, là vật lưu hành bất hợp pháp; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy.
Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia (Số Imei: 358979092046476) là phương tiện dùng vào việc liên lạc mua trái phép chất ma túy; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.
Đối với 01 chiếc áo khoác, không đáng giá trị; vậy căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu và tiêu hủy.
Riêng đối với 01 chiếc xe môtô (loại xe: Hai bánh, nhãn hiệu:/, số loại:/, màu sơn: /, dung tích xi lanh:/, số khung: RRKWCH1UM5X-008274; số máy: VTTJL1P52FMH-008274), hiện chưa xác định chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, trong khi chiếc xe trên lại là phương tiện dùng vào việc phạm tội; do vậy giao cho Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành thông báo trong thời hạn nhất định, nếu không có chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp liên hệ nhận, thì đề nghị căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Điều 228 Bộ luật Dân sự năm 2015, tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Lê Hoàng P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lê Hoàng P;
Xử phạt bị cáo Lê Hoàng P 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/12/2018.
Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo P.
- Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy: 01 gói được niêm P (bên trong có chứa tinh thể không màu, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra), 01 xe môtô biển số 60AC-004.13.
- Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia (Số Imei: 358979092046476).
- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy: 01 chiếc áo khoác.
- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 228 Bộ luật Dân sự năm 2015; giao Chi cục thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thông báo với thời hạn 12 tháng đối với 01 chiếc xe môtô (loại xe: Hai bánh, nhãn hiệu:/, số loại:/, màu sơn: /, dung tích xi lanh:/, số khung: RRKWCH1UM5X-008274; số máy: VTTJL1P52FMH- 008274), để chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp (nếu có) đến nhận, trong thời hạn trên kể từ ngày đăng báo mà không có chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp liên hệ nhận thì tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.
(Tình trạng vật chứng, tài sản theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 08/5/2019 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).
- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc: Bị cáo P chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thị hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án.
Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án./.
Bản án 37/2019/HS-ST ngày 26/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 37/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/06/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về