Bản án 37/2019/HS-ST ngày 24/06/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 37/2019/HS-ST NGÀY 24/06/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 24 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 25/2019/TLST-ST ngày 04/5/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2019/QĐXXST-HS ngày 06/6/2019 đối với bị cáo:

Võ Văn S; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh ngày 04 tháng 6 năm 1984 tại huyện B, tỉnh Quảng Bình; nơi ĐKNKTT và chổ ở hiện nay: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Kinh doanh tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Võ Xuân H, sinh năm 1940 và bà Lê Thị H, sinh năm 1952; anh chị em ruột: Có 10 người, Sơn là con thứ 9 trong gia đình; có vợ: Nguyễn Thị A, sinh năm 1996; nghề nghiệp: Nội trợ; có 01 con, sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 12/3/2019 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Võ Văn S (Là người bị khuyết tật nặng) có ông Trần Văn L; là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Bình; có mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Chị Võ Thị S, sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.

* Người làm chứng:

- Ông Phạm Văn H, sinh năm 1949; địa chỉ: TDP D, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 03/01/2019, Võ Văn S điều khiển xe ô tô nhãn hiệu KIA Morning BKS 73A - 106.78 lưu thông trên đường. Khi đến ngã tư đường Phạm Văn Đ giao nhau với đường 23/8 thuộc địa phận tổ dân phố D, phường Đ, TP Đ thì bị tổ tuần tra kiểm soát giao thông Công an thành phố Đ yêu cầu dừng xe kiểm tra, phát hiện và thu giữ trên xe ô tô có 04 hộp giấy, trong đó: 03 hộp hình chữ nhật kích thước (15,3 x 15,3 x 25,5)cm loại 09 viên, hình trụ tròn vỏ giấy liên kết với nhau bằng dây ngòi, vỏ hộp giấy nhiều màu sắc, có in chữ nước ngoài "CHONG KOL", mã ký hiệu C1759A (ký hiệu A1) và 01 hộp hình chữ nhật có kích thước (14,5 x 14,5 x 12) cm loại 36 viên, hình trụ tròn vỏ giấy liên kết với nhau bằng dây ngòi, vỏ hộp giấy nhiều màu sắc, có in chữ nước ngoài "PROSPER", mã ký hiệu KR5- B362 (ký hiệu A2). Võ Văn S khai nhận 04 hộp trên là pháo nổ.

Tại thông báo kết luận số: 129/GĐ - PC09 ngày 07/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 04 hộp pháo (ký hiệu A1, A2) trên có đầy đủ đặc tính của pháo nổ, có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ. Tổng khối lượng 04 hộp pháo là 8,1 kg.

Vật chứng:

- 03 hộp pháo có hình chữ nhật kích thước (15,3 x 15,3 x 25,5)cm loại 09 viên, hình trụ tròn vỏ giấy liên kết với nhau bằng dây ngòi, vỏ hộp giấy nhiều màu sắc, có in chữ nước ngoài "CHONG KOL", mã ký hiệu C1759A (ký hiệu A1);

- 01 hộp pháo có kích thước (14,5 x 14,5 x 12) cm loại 36 viên, hình trụ tròn vỏ giấy liên kết với nhau bằng dây ngòi, vỏ hộp giấy nhiều màu sắc, có in chữ nước ngoài "PROSPER", mã ký hiệu KR5- B362 (ký hiệu A2);

- 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA Morning, màu sơn trắng, BKS 73A – 106.78 đã qua sử dụng, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô mang tên Võ Thị S.

Ngày 09/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đ ra Quyết định xử lý vật chứng số: 18/QĐXLVC ngày 09/4/2019 trả xe ô tô nhãn hiệu KIA Morning, BKS 73A -106.78 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô cho chủ sở hữu chị Võ Thị S.

Cáo trạng số: 25CT-VKS-ĐH ngày 04/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố Võ Văn S về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại Điểm c Khoản 1, Điều 191 BLHS năm 2015. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 191 BLHS; Điểm i, p, s, v Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Khoản 3 Điều 54 Điều 34 BLHS năm 2015 đề nghị xử phạt bị cáo mức phạt Cảnh cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015 và Điều 106 BLTTHS đề nghị tịch thu tiêu huỷ: 02(hai) khối hình chữ nhật, nhãn hiệu “Chong Kol” mã ký hiệu “C1759” khối lượng 4,6kg (bốn phẩy sáu ki lô gam) đã được đóng gói niêm phong bằng chữ ký của những người liên quan: Nguyễn Xuân H, Nguyễn Ngọc S, Võ Nam G và dùng hình dấu Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Quảng Bình.

Đối với 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA Morning, màu sơn trắng, BKS 73A – 106.78 đã qua sử dụng, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô mang tên Võ Thị S. Ngày 09/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đồng Hới ra Quyết định xử lý vật chứng số:18/QĐXLVC trả xe ô tô nhãn hiệu KIA Morning, BKS 73A -106.78 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô cho chủ sở hữu là chị Võ Thị S.

Buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Ý kiến người bào chữa cho bị cáo Võ Văn S là đối tượng khuyết tật nặng: Tại phiên toà hôm nay ông Trần Văn L là là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Bình cũng nhất trí về tội danh như Viện kiểm sát, hành vi khi phạm tội của bị cáo mang tính thụ động, động cơ mục đích chỉ mang tính tức thời với lý do mua về để ăn mừng sự kiện là đứa con trai ra đời, bị cáo có hoàn cảnh cần xem xét là người bị tàn tật nặng, đi lại khó khăn. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, bố mẹ bị cáo có công với cách mạng, phạm tội nhất thời và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị HĐXX, Viện kiểm sát áp dụng cho bị cáo tại Điểm c Khoản 1 Điều 191 BLHS; Điểm i, p, s, v Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Khoản 3 Điều 54 Điều 34 BLHS năm 2015 đề nghị xử phạt bị cáo mức phạt Cảnh cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thấy hành vi phạm tội của mình đã gây ra là vi phạm pháp luật, nên rất ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và được hưởng chính sách khoan hồng của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Phiên tòa vắng mặt người làm chứng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nhưng sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo, do đó Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định chung.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ quá trình thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố; phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, tang vật vụ án được thu giữ cũng như các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, HĐXX có đủ cơ sở xác định: Do thiếu hiểu biết pháp luật, Ngày 03/01/2019, Võ Văn Sơn vận chuyển 04 hộp pháo nổ, tổng khối lượng 8,1 kg theo kết luận số: 129/GĐ - PC09 ngày 07/01/2019 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 04 hộp pháo (ký hiệu A1, A2) trên có đầy đủ đặc tính của pháo nổ, có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ. Tổng khối lượng 04 hộp pháo là 8,1 kg.

Hành vi của Võ Văn S đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với hành vi vận chuyển trái phép pháo nổ, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, Võ Văn S phải chịu trách nhiệm hình sự về tội“Vận chuyển hàng cấm" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, trực tiếp xâm phạm đến lĩnh vực quản lý Nhà nước về hàng hóa cấm lưu hành, thể hiện ý thức xem thường pháp luật, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình và bản luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS:

Bị cáo là người trưởng thành, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và am hiểu xã hội, pháp luật nhất định. Tuy nhiên, vì ham vui mà xem thường pháp luật nên phạm tội. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo một mức án đủ nghiêm, mới có đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS được thể hiện về nhân thân không có tiền án, tiền sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Xét trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo Võ Văn S sinh ra và lớn lên trong một gia đình có công với Cách mạng, bố bị cáo là ông Võ Xuân H được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, mẹ bị cáo là bà Lê Thị H được tặng Kỷ niệm chương chiến sỹ Trường Sơn. Bản thân Võ Văn S là người thuộc đối tượng khuyết tật nặng theo Quyết định về việc trợ cấp xã hội số: 2852/QĐ - UB ngày 31/7/2014 được hưởng chế độ trợ cấp của Nhà nước, tuy vậy bản thân S vẫn luôn cố gắng trong học tập rèn luyện sản xuất, kinh doanh và được Ủy ban Trung ương Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam tặng bằng khen: Thanh niên khuyết tật tiêu biểu năm 2016 và được Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam tặng bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc vượt khó vươn lên, làm chủ doanh nghiệp, cơ sở, có nhiều đóng góp cho cộng đồng. Quá trình điều tra bị can thành khẩn khai báo cho nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các Điểm i, p, s, v Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa ông Trần Văn L là là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Bình phát biểu nhất trí về tội danh như Viện kiểm sát, hành vi khi phạm tội của bị cáo mang tính thụ động, động cơ mục đích chỉ mang tính tức thời với lý do mua về để ăn mừng sự kiện là đứa con trai ra đời, bị cáo có hoàn cảnh cần xem xét là người bị khuyết tật nặng, đi lại khó khăn. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, bố mẹ bị cáo có công với cách mạng, phạm tội nhất thời và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị HĐXX, Viện kiểm sát áp dụng cho bị cáo tại Điểm c Khoản 1 Điều 191 BLHS; Điểm i, p, s, v Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Khoản 3 Điều 54 Điều 34 BLHS năm 2015 đề nghị xử phạt bị cáo mức phạt Cảnh cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét để chấp nhận yêu cầu của người bào chữa.

Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nơi cư trú rõ ràng. Do đó, HĐXX áp dụng Khoản 3 Điều 54 và Điều 34 BLHS, xử phạt bị cáo hình phạt Cảnh cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là đã có đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và thể hiện được chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước.

[4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015 và Điều 106 BLTTHS đề nghị tịch thu tiêu huỷ:

02(hai) khối hình chữ nhật, nhãn hiệu “Chong Kol” mã ký hiệu “C1759” khối lượng 4,6kg (bốn phẩy sáu ki lô gam) đã được đóng gói niêm phong bằng chữ ký của những người liên quan: Nguyễn Xuân H, Nguyễn Ngọc S, Võ Nam G và dùng hình dấu Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Quảng Bình.

Đối với 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA Morning, màu sơn trắng, BKS 73A – 106.78 đã qua sử dụng, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô mang tên Võ Thị S. Ngày 09/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đ ra Quyết định xử lý vật chứng số 18 trả xe ô tô nhãn hiệu KIA Morning, BKS 73A -106.78 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô cho chủ sở hữu chị Võ Thị S. Tại phiên tòa HĐXX thấy rằng việc bị cáo S mượn xe của chị S, chị S hoàn toàn không biết sử dụng làm phương tiện để phạm tội, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: Bị cáo Võ Văn S là người khuyết tật nặng vì vậy cần áp dụng Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Võ Văn S được miễn nộp án phí HSST

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 191; Điểm i, p, s,v Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Khoản 3 Điều 54; Điều 34 BLHS năm 2015.

1. Tuyên bố bị cáo Võ Văn S phạm tội “Vận chuyển hàng cấm".

- Xử phạt: Võ Văn S hình phạt cảnh cáo

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ Luật hình sự; Điều 106 của Bộ Luật tố tụng hình sự quyết định tịch thu tiêu hủy: 02(hai) khối hình chữ nhật, nhãn hiệu “Chong Kol” mã ký hiệu “C1759” khối lượng 4,6kg (bốn phẩy sáu ki lô gam) đã được đóng gói niêm phong bằng chữ ký của những người liên quan: Nguyễn Xuân H, Nguyễn Ngọc S, Võ Nam G và dùng hình dấu Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Quảng Bình.

Tang vật nêu trên hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, có đặc điểm, số lượng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/5/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

- Bị cáo Võ Văn S được miễn nộp án phí HSST

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai, báo cho bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2019/HS-ST ngày 24/06/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:37/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;