Bản án 37/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 37/2019/HS-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 23 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Đn Văn Đ, sinh năm 1989; HKTT: Thôn 10, xã QV, huyện QX, tỉnh TH. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đoàn Xuân V (đã chết) và bà Trần Thị Q, sinh năm 1963; Gia đình bị cáo có 02 chị em. Bị cáo là con thứ 2; Vợ: Trần Thị D, sinh năm 1990; Con: Có 03 con: Lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2018 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chị Ma Thị Đ, sinh ngày 08/3/2000; HKTT: Bản N, xã ĐL, huyện TA, tỉnh CB và chị Lăng Thị T, sinh năm 1994; HKTT: Xóm M, xã CL, huyện CL, tỉnh LS và chị Tòng Thị X, sinh năm 1992; HKTT: Xóm C, xã MT, huyện ST, tỉnh PT là nhân viên của quán café giải khát Soái Ca; địa chỉ: Thôn GL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN.

Đoàn Văn Đ, sinh năm 1989; HKTT: Thôn 10, xã QV, huyện QX, tỉnh TH đến quán cà phê Soái Ca do anh Nguyễn Văn X, sinh năm 1979; HKTT: Thôn AĐ, xã LV, huyện TD, tỉnh BN làm chủ được khoảng hơn 1 tháng với thu nhập 6.000.000Đ/tháng. Công việc của Đ là trông quán khi anh X vắng mặt; đưa đón nhân viên quán đi hát và quản lý nhân viên. Đ biết quán quán cà phê Soái Ca hoạt động mại dâm. Khi đến làm việc nhân viên quán Soái Ca bảo Đ mua bao cao su, Đ đã đi mua 01 hộp bao cao su để ở phòng số 3 rồi thông báo cho các nhân viên biết.

Khong 16 giờ ngày 17/12/2018, khi chị T đang ở quầy lễ tân ở quán thì có Nguyễn Văn T, sinh năm 1978; HKTT: Thôn Đ, xã BA, huyện QV, tỉnh BN; anh Trần văn H, sinh năm 1979 ở thôn PL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN và anh Ngô Minh V, sinh năm 1994, ở thôn XB, xã ĐX, huyện QV, tỉnh BN vào quán. Khi vào quán anh T bảo chị T cho gặp quản lý. Chị T gọi Đ “anh Đ có khách” Đ ra khu lễ tân thấy anh T, anh V, anh H đang ở đó. Đ bảo chị T gọi chị Ma Thị Đ và chị Tòng Thị X ra để khách xem mặt. Chị T đã gọi chị Đ và chị X. Sau đó anh T nói với Đ “Cho 3 vé đóng gạch bao nhiêu tiền 1 vé”. Đ hiểu ý là cho 3 nhân viên bán dâm, Đ trả lời 200.000đ/vé. Lúc này anh V nói mệt không đi. Anh T đưa cho Đ 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đ; Đ cầm tiền và trả lại cho anh T 100.000đ . Anh T và chị Đ vào phòng số 3; khi vào phòng anh T và chị Đ tự cởi quần áo rồi chị Đ lấy 01 bao cao su ở dưới gầm giường, xé bao cao su ra lồng vào dương vật anh T rồi anh T và chị Đ quan hệ tình dục. Anh H và chị T vào phòng số 02 rồi quan hệ tình dục với nhau. Khi anh T đang quan hệ tình dục với chị Đ ở phòng số 3, anh H đang quan hệ tình dục với chị T ở phòng số 2 thì bị Công an huyện QV, kết hợp với Công an xã PL bắt quả tang, thu giữ tang vật chứng.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 vỏ bao cao su tại phòng số 2. 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 vỏ bao cao su tại phòng số 3 được niêm phong trong phong bì. Thu của Đoàn Văn Đ 500.000đ; thu của Nguyễn Văn T 100.000đ.

Đoàn Văn Đ đã tự nguyên giao nộp cho Công an huyện QV 104 bao cao su chưa qua sử dụng.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV, Đoàn Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 40/CT-VKS ngày 21/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện QV đã truy tố, Đoàn Văn Đ về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Đoàn Văn Đ đã khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 17/12/2018, tại quán café giải khát Soái Ca; địa chỉ: Thôn GL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN, bị cáo đã Đ ý cho nhân viên của quán bán dâm cho anh Nguyễn Văn T và đã nhận của anh T 400.000đ. Sau đó bị cáo bố trí cho anh T và chị Ma Thị Đ, anh Trần Văn H và chị Lăng Thị T thực hiện việc mua bán dâm tại quán café giải khát Soái Ca, nơi bị cáo chịu trách nhiệm trông nom quản lý. Khi anh Tám và chị Đ, anh Hịu và chị T đang thực hiện hành vi mại dâm tại quán thì bị Lực lượng Công an vào bắt quả tang. Bị cáo thừa nhận hành vi đó là có tội.

Trong phần tranh luận tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố trình bày luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo đã đề nghị Hội Đ xét xử tuyên bố: Bị cáo Đoàn Văn Đ phạm tội “Chứa mại dâm”; đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Đoàn Văn Đ từ 20 - 24 tháng tù. Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 500.000đ. Trả lại bị cáo 100.000đ nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án. Tịch thu tiêu hủy: 104 bao cao su chưa qua sử dụng; 02 bao cao su đã qua sử dụng và 02 vỏ bao cao su được niêm phong.

Bị cáo Đoàn Văn Đ nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với vị đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội Đ xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của của Kiểm sát viên, ý kiến của bị cáo : Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện:

Đoàn Văn Đ có hành vi bố trí cho anh T và chị Đ, anh H và chị T thực hiện hành vi mại dâm tại quán café nơi bị cáo làm quản lý. Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa mại dâm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự. Vì vậy bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào trật tự an toàn công cộng làm ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn hóa mới và là môi trường lây lan căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS và các căn bệnh xã hội khác. Chính vì vậy hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự nhưng bị cáo phạm tội do lỗi cố ý, mục đích vụ lợi, tính chất tội phạm là nguy hiểm mà cả xã hội lên án và đang ra sức bài trừ, do vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới cải tạo bị cáo trở thành công dân lương thiện. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Về hình phạt bổ sung: Lẽ ra, ngoài hình phạt chính cần phạt bị cáo một khoản tiền sung công quỹ Nhà nước mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng không có tài sản và thu nhập nên miễn hình phạt tiền cho bị cáo như lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ tại phiên tòa là phù hợp.

Đi với Nguyễn Văn X là chủ quán cà phê, X có giấy chứng nhận kinh doanh dịch vụ cà phê, giải khát…và thuê nhân viên phục vụ khách hát và thuê Đ làm quản lý. X không có mặt và không biết việc Đ để nhân viên bán dâm cho khách tại quán nên cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

Đi với Trần Văn H là người mua dâm, Công an huyện Quế Võ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp qui định của pháp luật.

Đi với Nguyễn Văn T là người mua dâm, đã bỏ trốn. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ tiến hành xác minh nhưng chưa rõ được danh tính, khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau. Đối với chị Lăng Thị T và chị Ma Thị Đ là người bán dâm, Công an huyện Quế Võ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Về vật chứng của vụ án: Trong quá trình điều tra Công an huyện Quế Võ đã thu của Đ 500.000đ, trong đó 400.000đ là tiền bị cáo thu bất chính, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Số tiền 100.000 đ là của bị cáo cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án. Còn số tiền 100.000đ là tiền của Nguyễn Văn T, nay T bỏ trốn, chưa xác định được danh tính cụ thể ở đâu nên đối với số tiền này cần phải tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Tang vật là 104 bao cao su chưa qua sử dụng; 02 bao cao su đã qua sử dụng và 02 vỏ bao cao su được niêm phong cần phải được tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Văn Đ phạm tội “Chứa mại dâm.

Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Điu 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

Xử phạt: Đoàn Văn Đ 20 (hai mƣơi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2018. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 500.000đ. Trả lại bị cáo 100.000đ nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án. Tịch thu tiêu hủy: 104 bao cao su chưa qua sử dụng; 02 bao cao su đã qua sử dụng và 02 vỏ bao cao su được niêm phong.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:37/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;