Bản án 37/2018/HSST ngày 17/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 37/2018/HSST NGÀY 17/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 04 năm 2018, tại Trụ sở tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 40/HSST ngày 22/03/2018; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2018/QĐXXST-HS ngày 02/04/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Mạnh T. Sinh năm: 1976; Nơi sinh: huyện N, tỉnh N2;

Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Đội 2, xã Đức Long, huyện N, tỉnh N2; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12. Dân tộc: Kinh; Con ông: Nguyễn Khắc B (đã chết) và bà: Quách Thị P, sinh năm: 1948; Có vợ là Nguyễn Thị A, sinh năm 1978; Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Tòa án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xử phạt Nguyễn Mạnh T 24 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy tại bản án hình sự số 51/2013/HSST ngày 24/5/2013.

Bị cáo bị bắt, tạm giam giữ từ ngày 19/12/2017, giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Sơn La cho đến nay; Có mặt.

Người làm chứng: Anh Bùi Văn H, sinh năm: 1982; Trú quán: Tiểu khu Bình Minh, xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 10 phút ngày 19.12.2017 Tổ công tác Công an xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu Quyết Thắng, xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn phát hiện 02 đối tượng là Bùi Văn H điều khiển xe chở Nguyễn Mạnh T có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác áp sát và yêu cầu 02 đối tượng có ma túy thì tự giác giao nộp. Khi được yêu cầu Nguyễn Mạnh T bỏ trong tay ra 01 gói nhỏ gói bằng giấy bạc màu vàng rơi xuống đất, T khai là ma túy T tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Bùi Văn H khai chỉ là người chở xe ôm thuê cho T và không biết việc T tàng trữ ma túy. Tổ công tác khám xét 02 đối tượng không phát hiện chất nghi ma túy, thu giữ 01 điện thoại di động hiệu Nokia tại túi quần bên trái Nguyễn Mạnh T. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Mạnh T và niêm phong toàn bộ vật chứng.

Quá trình điều tra Nguyễn Mạnh T khai nhận:

Khoảng 09 giờ ngày 19.12.2017 T mang theo số tiền 300.000VNĐ và đi nhờ xe ô tô từ xã Phiêng Côn, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La đến xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Khoảng 11 giờ 30 phút T đến khu vực ngã ba xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn T xuống xe, tại đây T thuê xe ôm của Bùi Văn H đến bản Mai Thuận, xã Cò Nòi với giá 100.000VNĐ. Sau đó H điều khiển xe mô tô hiệu Win BKS: 26F7-5470 chở T vào bản Mai Thuận. Cách bản Mai Thuận khoảng 20m T bảo H đứng đợi rồi đi bộ vào trong bản. Tại đây T gặp và trao đổi mua 200.000VNĐ ma túy của 01 người đàn ông không quen biết, người đàn ông giao cho T 01 gói nhỏ gói bằng mảnh politilen màu hồng bên trong có hê rô in. T xé một mảnh giấy bạc màu vàng từ vỏ bao thuốc lá của T đem theo gói bên ngoài gói ma túy sau đó quay lại vị trí H đợi và bảo H chở ra ngã ba xã Cò Nòi. H điều khiển xe đi được khoảng 500m thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang.

Ngày 19.12.2017 cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Sơn phối hợp với phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La cân tịnh xác định trọng lượng gói vật chứng thu giữ của Nguyễn Mạnh T có trọng lượng là 0,25 gam. Trích rút 0,14 gam làm mẫu giám định, ký hiệu M, còn lại 0,11 gam, ký hiệu T.

Ngày 17.12.2017, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ra bản kết luận giám định số 108/KLMT, kết luận: “Mẫu gửi giám định kỹ hiệu M là chất ma túy, loại chất heroin. Trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,14gam. Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 0,25 gam; Loại chất hê rô in”

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo. Tại phiên toà không phát sinh tình tiết mới.

Tại bản cáo trạng số: 20/CT-VKSMS 21/03/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh T với nội dung: Truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mai Sơn để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Mạnh T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Qua tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã phát biểu ý kiến, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt đối với bị cáo như sau:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 3 Điều 7; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh T từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi tư) tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 0,11 gam hê rô in; 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu.

Tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu đen (kèm theo sim) thu giữ của bị cáo.

Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của  Ủy ban T vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000VNĐ.

Bị cáo Nguyễn Mạnh T tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiến nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo: Nguyễn Mạnh T khai nhận bản thân là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, ngày 19.12.2017 Nguyễn Mạnh T đã mua trái phép 01 gói hê rô in với giá 200.000VNĐ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an huyện Mai Sơn lập hồi 12 giờ 10 phút ngày 19/12/2017; biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, biên bản hỏi cung và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đã có đầy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Mạnh T đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Với việc tàng trữ 0,25 gam hê rô in mục đích để sử dụng, thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trước thời điểm Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên  theo quy định tại điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 về việc áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy có khung hình phạt tù từ 01 đến 05 năm, như vậy quy định này nhẹ hơn khung hình phạt tù từ 02 đến 07 năm tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn truy tố bị cáo tại Bản cáo trạng số: 20/CT-VKSMS ngày 22.03.2018 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét thấy tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, làm tăng tệ nạn nghiện chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xét thấy: Bị cáo Nguyễn Mạnh T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy tại bản án hình sự số 51/2013/HSST ngày 24/5/2013 tuy đã được xóa án tích nhưng bị cáo là người có nhân thân xấu. Bản thân bị cáo có đủ năng lực nhận thức trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã phạm tội với lỗi cố ý. Quá trình điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS năm 2015.

Từ sự phân tích trên, căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt thật nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đủ giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội, từ đó mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa những hành vi tương tự sẽ và đang sẩy ra.

Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, thu nhập không ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Khi bắt quả tang hành vi phạm tội của bị cáo, cơ quan điều tra đã thu giữ 0,25 gam hê rô in, trích rút 0,14 gam làm mẫu giám định, ký hiệu M. Vật chứng còn lại là 0,11 gam ký hiệu T được niêm phong. Xét thấy là chất độc dược Nhà
nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu. Xét thấy không là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia (kèm theo sim) thu giữ của bị cáo. Xét thấy là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, do đó cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban T vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000VNĐ.

Về nguồn gốc ma túy :  Bị cáo T khai mua cua ngư ời đàn ông không biêt  họ tên, tuổi, địa chỉ, quá trình trao đổi không ai biết, chứng kiến nên Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn không có cơ sở để điều tra xác minh.

Về vấn đề khác: Đối với Bùi Văn H là người đã chở xe ôm thuê cho Nguyễn Mạnh T nhưng không biết việc T đi xe ôm nhằm mục đích mua và tàng trữ trái phép chất ma túy do đó không đặt vấn đề xử lý đối với Bùi Văn H.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 3 Điều 7; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh T 15 (mười lăm) tháng tù giam, thời gian thụ hình tính từ ngày bắt 19.12.2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 0,11 gam hê rô in; 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu.

Tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu đen (kèm theo sim) thu giữ của bị cáo.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban T vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000VNĐ.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2018/HSST ngày 17/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;