Bản án 37/2018/HS-ST ngày 16/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 37/2018/HS-ST NGÀY 16/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 5 năm 2018 tại Hội trường Toà án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 32/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Công V; sinh ngày 13/7/1993; tại thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú Tổ 16, khu Kim Sen, phường K, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Trình độ văn hoá:11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc : Kinh; Giới tính Nam; Tôn giáo Không; Quốc tịch Việt Nam; Con ông Trần Văn D, sinh năm 1965 và bà Phạm Thị N, sinh năm 1969; Vợ, con Chưa có; Tiền án, tiền sự Không. Bị bắt ngày 23/01/2018, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Đông Triều, cómặt.

 - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Hà Ngọc H, sinh năm 1993; Nơi cư trú : Khu Kim Sen, phường K, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

- Người làm chứng : Anh Hoàng Văn K, sinh năm 1959; Nơi cư trú : Tổ 1, khu Vĩnh Hồng, phường M, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh,  vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau

Do nghiện chất ma túy từ tháng 6/2017, khoảng 17 giờ ngày 23/01/2018 Trần Công V sử dụng điện thoại di động có lắp sim số 0961747595 gọi vào số điện thoại 01687719086 của Vũ Trường G (tên gọi khác Giang K), sinh năm 1978, trú tại tổ 4, khu Vĩnh hòa, phường M, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh nhờ G mua giúp cho 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) ma túy dạng đá để sử dụng thì được G đồng ý. Nên V đi xe đạp điện đến nhà gặp và đưa cho G 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng) trong đó 500.000đ để mua ma túy, còn 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) V cho G. Sau đó G nói với V khi nào mua được ma túy thì gọi xuống lấy rồi V đi ra quán internet “Huỳnh” ở khu Gia Mô, phường K, thị xã Đ ngồi chơi. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, G gọi điện thoại thông báo cho V xuống nhà lấy ma túy, nên V gọi điện thoại nhờ Hà Ngọc H, sinh năm 1993, trú tại khu Kim Sen, phường K, thị xã Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 14T7-0646 chở V xuống khu vực cổng trường Trần Nhân Tông thuộc tổ 4, khu Vĩnh Hòa, phường M, thị xã Đ. Tại đây V bảo anh H đứng ở ngoài chờ còn V đi vào nhà gặp G để lấy 01 (một) túi lilon chứa chất ma túy (dạng đá), sau đó V cất toàn bộ số ma túy này vào túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi đi ra bảo anh H chở về nhà. Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày khi đi đến khu vực khu Vĩnh Hồng, phường M, thị xã Đ, V bảo anh H dừng xe mô tô rồi V đi đến một ngõ không có người qua lại với mục đích sử dụng ma túy thì bị Công an phường M, thị xã Đ kiểm tra phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trong túi quần phía trước bên phải V đang mặc 01 (một) túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, ngoài ra còn thu giữ của V 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, của anh Hà Ngọc H 01 xe mô tô biển kiểm soát 14T7-0646.

Tại bản kết luận giám định số 155/GĐMT ngày 25/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon thu giữ của Trần Công V gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,36 gam (không phẩy ba sáu gam). (Methamphetamine nằm trong danh mục II, STT 67; Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất). Quá trình điều tra Trần Công V khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 37/CT-VKS-ĐT ngày 12/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ - tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo Trần Công Vvề tội:“Tàng trữ trái phép chất ma tuý ” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm luận tội như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Trần Công V từ 15 đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 23/01/2018. Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong số 155/GĐMT đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; Tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước 01 thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh đen, có lắp 01 (sim) Viettel. Máy đã qua sử dụng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện, đầy đủ chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Công V khai nhận hành vi phạm tội của mình như phần “nội dung vụ án” đã nêu. Bị cáo xác định hành vi mà bị cáo đã thực hiện là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp thời gian địa điểm xảy ra vụ án, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh lập hồi 19 giờ 30 phút ngày 23/01/2018, phù hợp với biên bản niêm phong vật chứng, kết luận giám định số 155/GĐMT ngày 25/01/2018 cũng như lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Hà Ngọc H và người làm chứng anh Hoàng Văn K, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa như vậy có đủ căn cứ để khẳng định : Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 23/01/2018, tại tổ 1, khu Vĩnh Hồng phường M, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, Trần Công V có hành vi tàng trữ trái phép 01 (một) túi nilon chất  ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,36 gam (không phẩy ba sáu gam) nhằm mục đích sử dụng, thì bị phát hiện bắt quả tang.

[2] Từ những chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận hành vi của Trần Công V đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như nội dung bản cáo trạng đã quy kết là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý. Không những thế nó còn ảnh hưởng rất xấu đến việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Hiện nay vấn nạn ma túy đã trở thành hiểm họa chung cho cả nhân loại, khi đã nghiện chất ma túy, đặc biệt là ma túy tổng hợp dạng đá (Methamphetamine) nó gây ra ảo giác rất mạnh, làm thay đổi tâm sinh lý rất dễ kích thích làm cho người sử dụng không thể kiểm soát được hành vi, luôn hoang tưởng, nặng hơn sẽ mắc chứng tâm thần. Trong nhiều năm qua nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc giải quyết tệ nạn nghiện chất ma tuý và tìm mọi biện pháp nhằm loại bỏ tệ nạn này ra khỏi đời sống xã hội. Đồng thời cũng nghiêm trị những người có hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý. Bị cáo là thanh niên có sức khoẻ, hiểu rõ tác hại của chất ma tuý, nhưng do thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện, ham chơi đua đòi nên đã lao vào con đường nghiện chất ma tuý rồi dẫn đến phạm tội.

Vì vậy cần phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới tương xứng đúng mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời mới có tác dụng đấu tranh phòng chống tội phạm chung.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xét Tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án, tiền sự, nhận thức được sai phạm của mình. Nên HĐXX áp điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 giảm nhẹ cho bị cáo một phần về hình phạt, để bị cáo thấy được sự khoan hồng trong chính sách hình sự của pháp luật nhà nước ta đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải, quyết tâm sữa chữa lỗi lầm để trở thành người lương thiện.

[3] Ngoài hình phạt chính, lẽ ra cần áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 phạt bị cáo một khoản tiền để sung quỹ nhà nước. Nhưng cũng xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng. Nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án 01 (một) phong bì niêm phong số 155/GĐMT đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, đây là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh đen, có lắp 01 (sim) Viettel. Máy đã qua sử dụng Văn dùng để liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước. (Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Đ và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đ ngày 13/4/2018).

[5] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Đ. Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ. Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có mặt, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt nhưng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Xử phạt Trần Công V 15 (mười lăm) tháng tù về tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 23/01/2018.

- Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong số 155/GĐMT đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh.

Tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu  Nokia105 màu xanh đen, có lắp 01 (sim) Viettel. Máy đã qua sử dụng. (Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Đ và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đ ngày 13/4/2018).

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;  điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc Trần Công V phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho bị cáo biết, có quyền kháng cáo trong hạn15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan báo cho biết có quyềnkháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2018/HS-ST ngày 16/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;