Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 28/03/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA HƯNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 37/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28/3/2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nghĩa Hưng mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 02/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2018 Về tranh chấp xin ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2018/QĐXX-ST ngày 09/3/2018 giữa các đương sự:Nguyên đơn: Anh Trần Văn C-Sinh năm 1989.

Địa chỉ: Tổ dân phố x, thị trấn Đ, huyện N, tỉnh Nam Định.

Bị đơn: Chị Võ Thị H –  Sinh năm 1988.

Địa chỉ: Khu phố G, thị trấn C, huyện P, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa có mặt anh C vắng mặt chị H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện lập ngày 01/11/2017 cũng như lời khai anh Trần Văn C tại phiên tòa thể hiện:  Anh kết hôn với với chị Võ Thị H vào tháng 02/2011 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Đ, huyện N, tỉnh Nam Định. Saukhi kết hôn vợ chồng chung sống được thời gian ngắn, đến năm 2014 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do tính tình hai người không hợp nhau vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân, dẫn đến vợ chồng thường xảy ra xô xát, mặc dù đã được gia đình động viên khuyên giải nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện. Đến tháng 08/2014 thì vợ chồng anh sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay anh xác định tình cảm giữa anh và chị H  không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, nên anh C đề nghị Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng xem xét giải quyết cho anh được ly hôn với chị Võ Thị H.

Về con chung anh Trần Văn C khai: Giữa anh và chị H có một con chung là cháu Trần Gia P , sinh ngày 18/07/2011, từ khi hai vợ chồng ly thân cháu P do chị H chăm sóc nuôi dưỡng. Vợ chồng ly hôn anh C có nguyện vọng để chị H nuôi cháu P và anh tự nguyện đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng là 1.000.000 đồng kể từ tháng 3/2018 cho đến khi con trưởng thành lao động tự lập được.

Về tài sản chung của vợ chồng anh C xác định vợ chồng anh không có tài sảnchung, anh không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về án phí anh C đề nghị giải quyết theo quy định.

Tại phiên toà hôm nay chị Võ Thị H không có mặt (chị Võ Thị H có đơn xin không hòa giải và xét xử vắng mặt). Lời khai của chị Võ Thị H tại các buổi làm việc với Tòa án thể hiện: Chị kết hôn với anh Trần Văn C vào tháng 02/2011 kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Đ, huyện N, tỉnh Nam Định. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc và làm ăn tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2013 thì vợ chồng chị về quê chồng làm ăn. Do cuộc sống khó khăn, thu nhập không ốn định, bấp bênh nên vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Năm 2014 cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do anh C đi làm ăn xa, vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, không hòa hợp với nhau cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nên chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ để ở từ đó cho đến nay. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay anh C xin ly hôn chị thì chị nhất trí thuận tình ly hôn với anh Trần Văn C.

Về con chung chị H xác định: Vợ chồng chị có một con chung là cháu Trần Gia P, sinh ngày 18/07/2011, từ khi hai vợ chồng ly thân cháu P do chị H chăm sóc nuôi dưỡng. Vợ chồng ly hôn anh C có nguyện vọng để chị nuôi con chung thì H đồng ý nhận trực tiếp nuôi cháu P và yêu cầu anh C phải có trách nhiệm đóng góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị H tùy theo nguyện vọng của anh.

Về tài sản chung chị H xác định: Vợ chồng chị không có tài sản chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

 Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến xét xử tại phiên toà hôm nay Thẩm phán thụ lý giải quyết cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung:

- Quan hệ hôn nhân: Anh Trần Văn C xin ly hôn chị Võ Thị H, chị H nhất trí ly hôn vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 55 Luật hôn nhân và gia đình xử công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Trần Văn C và chị Võ Thị H.

-Về con chung:Anh Trần Văn C và chị Võ Thị H đều thống nhất xác định vợ chồng có một con chung là cháu Trần Gia P, sinh ngày 18/07/2011, từ khi hai vợ chồng ly thân cháu P do chị H chăm sóc nuôi dưỡng. Anh C và chị H đều thống nhất giao cháu P cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và anh C phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Thấy việc thỏa thuận của anh C và chị H  về vấn đè trực tiếp nuôi con chung là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, không trái quy định của pháp luật vì vậy được chấp nhận. Việc anh C tự nguyện đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng 1.000.000 đồng là phù hợp, nên chấp nhận.

- Về tài sản chung: Anh  Trần Văn C và chị Võ Thị H đều thống nhất xác định vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên anh Chung phải nộp theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào lời trình bày của đương sự và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Võ Thị H cư trú tại khu phố G, thị trấn C, huyện P, tỉnh Bình Thuận nhưng chị H có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng thụ lý giải quyết vụ án anh Trần Văn C xin ly hôn chị Võ Thị H và Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền. Tại phiên Tòa hôm chị Võ Thị H vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng xét xử vắng mặt chị Võ Thị H là phù hợp với quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Cuộc hôn nhân giữa anh Trần Văn C và chị Võ Thị H vào tháng 02 năm 2011 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Đ, huyện H, tỉnh Nam Định là một hôn nhân tự do, tiến bộ và có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2014 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hòa hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Mặc dù được gia đình hai bên động viên khuyên giải nhưng không thành vợ chồng ly thân nhau từ  tháng 08/2014. Nay anh C xác định tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng giải quyết vợ chồng được ly hôn, chị H cũng nhất trí thuận tình ly hôn. Thấy việc thuận tình ly hôn của anh C và chị H là hoàn toàn tự nguyện không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật, phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Anh Trần Văn C và chị Võ Thị H đều thống nhất xác định vợ chồng có một con chung là Trần Gia P, sinh ngày 18/07/2011, từ khi hai vợ chồng ly thân cháu P do chị H chăm sóc nuôi dưỡng. Anh C và chị H đều thống nhất giao cháu P cho H trực tiếp nuôi dưỡng và anh C phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng là 1.000.000 đồng kể từ tháng 03/2018 cho đến khi con đủ 18 tuổi. Thấy việc thỏa thuận của anh C và chị H là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, không trái quy định của pháp luật vì vậy được chấp nhận.

[4] Về tài sản chung vợ chồng: Anh Trần Văn C và chị Võ Thị H đều thống nhất xác định vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con anh Trần Văn Cphải nộp theo quy định của pháp luật.

[6] Về quan điểm của Kiểm sát viên Viên kiểm sat nhân dân huyện NghĩaHưng là phù hợp.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 55, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 6 và Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1 - Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Trần Văn C và chị Võ Thị H.

2 - Về con chung: Xử giao Trần Gia P, sinh ngày 18/07/2011 cho chị Võ Thị Htrực tiếp nuôi dưỡng, anh C phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị H mỗi thánglà 1.000.000 đồng kể từ tháng 03/2018 cho đến khi cháu P đủ 18 tuổi. Không ai được ngăn cản quyền chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng và thăm nom con chung.

3 – Về án phí:

Án phí dân sự sơ thẩm anh Trần Văn C phải nộp 300.000 đồng và án phí đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung anh Trần Văn C phải nộp 300.000 đồng.

Tổng số tiền án phí anh Trần Văn C phải nộp là 600.000 đồng nhưng được trừvào số tiền tạm ứng án phí anh C đã nộp theo biên lai số BB/2012/06128 ngày12/01/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghĩa Hưng, anh C còn phải nộp300.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Báo cho người có mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệuthi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 28/03/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:37/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Hưng - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;