Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 20/09/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 37/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 138/2018/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1 9 8 /2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1969 (có mặt).

Đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Số T đường Q, khóm B, phường H, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

Địa chỉ: Số M đường P, khóm B, phường 8, thành phố P, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Ông Huỳnh Ngọc B, sinh năm 1962 (có mặt).

Địa chỉ: Số T đường Q, khóm B, phường H, thành phố P, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 04 tháng 6 năm 2018 và trong quá trình xét xử nguyên đơn, bà Nguyễn Thị V trình bày:

Bà và ông Huỳnh Ngọc B tự nguyện sống chung với nhau từ năm 1990 có tổ chức lễ cưới nhưng không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống bà và ông B có ba người con chung đều đã trưởng thành là chị Huỳnh Thị Cẩm G, sinh năm: 1992; Chị Huỳnh Thị Kim X, sinh năm: 1994; Chị Huỳnh Thị Kim Đ, sinh năm: 1996 và không có con nuôi. Bà và ông B có tạo lập được tài sản chung nhưng tự thỏa thuận và không có nợ chung.

Thời gian đầu bà và ông B chung sống hạnh phúc. Nhưng từ năm 2017 đến nay thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hòa hợp, bà và ông B không còn yêu thương quý trọng lẫn nhau. Ông B thường xuyên gây ra nợ, bà phải trả nợ thay cho ông B nhiều lần, ông B cam kết sửa đổi nhưng ông B không thực hiện. Nên bà và ông B đã sống ly thân với nhau từ tháng 04/2018 cho đến nay. Hiện nay bà không còn tình cảm với ông B. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận bà và ông Huỳnh Ngọc B là vợ chồng.

Về con chung: Bà và ông B có ba người con chung nhưng đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản chung: Bà và ông B tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

- Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ ngày 13 tháng 8 năm 2018 và trong quá trình xét xử bị đơn, ông Huỳnh Ngọc B trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị V tự nguyện sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 1990 có tổ chức lễ cưới nhưng không có đăng ký kết hôn. Về con chung, tài sản chung, nợ chung và nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn thì ông thống nhất với lời trình bày của bà V, ông cam kết từ nay về sau không làm ra nợ để bà V phải trả nợ thay cho ông nữa, ông mong muốn được hàn gắn tình cảm với bà V vì ông vẫn còn yêu thương bà V. Do ông và bà V phát sinh mâu thuẫn nên đã sống ly thân với nhau từ tháng 04/2018 cho đến nay. Tuy nhiên tại tòa bà V kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận ông và bà V là vợ chồng nên ông cũng đồng ý.

Về con chung: Ông và bà V có ba người con chung nhưng đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản chung: Ông và bà V tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

- Ý kiến của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng tại phiên tòa:

Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ đúng theo quy định. Về thời hạn chuẩn bị xét xử được đảm bảo theo quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, việc cấp tống đạt đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên Tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 68; 70; 71; 86 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Về nội dung vụ án, sau khi phân tích nội dung yêu cầu khởi kiện, căn cứ vào tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét yêu cầu khởi kiện của bà V: Về quan hệ hôn nhân, bà Nguyễn Thị V và ông Huỳnh Ngọc B đều thừa nhận ông, bà tự nguyện sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 1990, có tổ chức lễ cưới nhưng không có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu ông B và bà V chung sống hạnh phúc nhưng từ năm 2017 đến nay thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm, trong cuộc sống hàng ngày ông B thường làm ra nợ, bà V phải trả nợ thay cho ông B nhiều lần, ông B cam kết sửa đổi nhưng ông B không thực hiện. Tại tòa bà V xác định không còn tình cảm với ông B, cuộc sống chung của hai người không hạnh phúc và bà V, ông B đã sống ly thân với nhau từ tháng 4 năm 2018 đến nay. Ông B cũng nhận thức được đời sống chung giữa ông B và bà V không thể tiếp tục nên ông B và bà V đều thừa nhận quan hệ sống chung giữa ông, bà không phải là vợ chồng. Tại khoản 2, Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định “Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 luật này...”. Hội đồng xét xử xét thấy bà Nguyễn Thị V và ông Huỳnh Ngọc B chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 1990, thời điểm ông, bà chung sống với nhau như vợ chồng trong khoảng thời gian từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, hai bên có đủ điều kiện kết hôn mà không đăng ký kết hôn cho nên quan hệ hôn nhân của bà Nguyễn Thị V và ông Huỳnh Ngọc B không được pháp luật công nhận. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà V về việc không công nhận bà Nguyễn Thị V và ông Huỳnh Ngọc B là vợ chồng là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về con chung: Ông B và bà V đều thừa nhận quá trình chung sống ông, bà có ba người con chung là chị Huỳnh Thị Cẩm G, sinh năm: 1992; Chị Huỳnh Thị Kim X, sinh năm: 1994; Chị Huỳnh Thị Kim Đ, sinh năm: 1996 và không có con nuôi nhưng đã trưởng thành có khả năng lao động, tự nuôi sống bản thân không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[3] Về tài sản chung: Bà V và ông B tự thỏa thuận không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về nợ chung: Bà V và ông B tự khai không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Như đã phân tích nêu trên lời đề nghị của kiểm sát viên là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị V phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng theo quy định tại Điểm a, Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 5, Khoản 1 Điều 28; Điểm a, Khoản 1 Điều 35; Điều 273; Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Khoản 1 Điều 9; Khoản 1 Điều 14 và Khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điểm a, Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí toà án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị V và ông Huỳnh Ngọc B.

2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị V và ông Huỳnh Ngọc B có ba người con chung là chị Huỳnh Thị Cẩm G, sinh năm: 1992; Chị Huỳnh Thị Kim X, sinh năm: 1994; Chị Huỳnh Thị Kim Đ, sinh năm: 1996 và không có con nuôi nhưng đã trưởng thành có khả năng lao động, tự nuôi sống bản thân. Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị V và ông Huỳnh Ngọc B tự thỏa thuận, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị V và ông Huỳnh Ngọc B tự khai không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

4.1. Bà Nguyễn Thị V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0001803 ngày 04/6/2018 của Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng; Bà V đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

4.2 Ông Huỳnh Ngọc B không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thâm.

Các đương sự được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 20/09/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:37/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;