TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 37/2017/HSST NGÀY 07/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TIỀN GIẢ
Ngày 07 tháng 9 năm 2017 tại: Phòng xét xử của Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 26/2017/HSST ngày 03 tháng 8 năm 2017 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Thị Phương K; sinh ngày 23 tháng 12 năm 1940; nơi đăng ký hộ khẩu và nơi cư trú: Thôn B, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/10; con ông: Nguyễn Văn M (Đã chết); con bà: Nguyễn Thị T (Đã chết); anh, chị, em ruột: Có 06 anh em, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình; chồng: Nguyễn Thế T1, sinh năm 1939; con: Có 09 con, lớn nhất 55 tuổi, nhỏ nhất 38 tuổi; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo được tại ngoại; có mặt.
2. Họ và tên: Nguyễn Thế T1; sinh ngày 09 tháng 11 năm 1939; nơi đăng ký hộ khẩu và nơi cư trú: Thôn B, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/10; con ông: Nguyễn Thế N; (Đã chết); con bà: Trần Thị C (Đã chết); anh, chị, em ruột: Có 07 chị em, bị cáo là con thứ 02 trong gia đình; vợ: Nguyễn Thị Phương K; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo được tại ngoại; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Thị T2, sinh năm 1974; trú tại: Thôn T, xã B, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; có mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Nguyễn Thị Phương K, Nguyễn Thế T1 bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 23/4/2017, Công an huyện Tràng Định nhận được tin báo của quần chúng nhân dân có một người phụ nữ có hành vi lưu hành tiền giả tại cửa hàng vàng, bạc “H - L”, khu 2, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Qua kiểm tra xác định người phụ nữ là Nguyễn Thị Phương K có biểu hiện nghi vấn đã yêu cầu về trụ sở để làm rõ. Tại Cơ quan Công an Nguyễn Thị Phương K khai nhận: Khoảng hơn một tháng trước bà K bán 60 (sáu mươi) kg gà, cho một nam thanh niên (không biết tên tuổi địa chỉ) được 6.000.000đ (sáu triệu đồng) đến sáng ngày 23/4/2017 bà K lấy tiền bán gà được cùng con gái là Nguyễn Thị T2 đi chợ thị trấn Thất Khê để mua đồ. Khi ra đến chợ thị trấn Thất Khê bà K cùng con gái (T2) đi vào hiệu vàng “H - L” tại: Khu 2, thị trấn T để mua vàng, Nguyễn Thị T2 mua 01 dây chuyền bạc trị giá 100.000đ (một trăm sáu mươi nghìn đồng), còn bà K chọn mua 01 nhẫn vàng ta 03 chỉ với số tiền là 10.675.000đ (mười triệu sáu trăm bảy mươi năm nghìn), khi bà K lấy tiền ra thanh toán cho ông Nguyễn Mạnh H (là chủ hiệu vàng), ông H nhận tiền và đưa vào máy đếm tiền, kiểm tra phát hiện trong tổng số 50 tờ tiền Polime mệnh giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), có 23 tờ tiền Polime mệnh giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), tiền ngân hàng nhà nước Việt nam là tiền giả. Khi phát hiện có tiền giả, ông H nói “Bà ơi số tiền này có 23 tờ là tiền giả” và tách riêng số tiền giả ra và nói “số tiền này là tiền giả bà không tiêu được, công an bắt bà ngay” bà K nói “số tiền này do tôi bán gà mà có”. Lúc này con gái bà K là Nguyễn Thị T2 ở gần đó đi đến hộ bà K cất tiền vào túi, sau đó bà K đi bộ ra hàng chè chợ thị trấn T chỗ con rể chờ và bảo con rể là Đào Duy Đ lấy xe máy đưa về nhà. Khi về đến nhà bà K lấy 22 tờ tiền giả để trên bàn và nói với chồng là Nguyễn Thế T1 “đây là tiền giả, ông cất đâu thì cất” rồi K mang theo 01 (một) tờ tiền giả Polime mệnh giá 200.000đ, đi ra chợ thị trấn T, chưa kịp tiêu thì bị lực lượng Công an mời về trụ sở để làm việc và đã giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra, 01 tờ tiền có số sê ri là EY17416720 tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam giả. Còn ông Nguyễn Thế T1 lấy 22 tờ tiền giả cho vào vỏ bao thuốc lá rồi gói lại bằng túi ni lon, đem ra vườn ở trước cửa nhà chôn giấu. Khi tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thị Phương K tại: Thôn B, xã Đ, huyện T qua vận động, thuyết phục ông Nguyễn Thế T1 đã ra vườn đào lấy đem nộp cho Cơ quan điều tra 22 tờ tiền giả, trong đó có 19 (mười chín tờ) có cùng sê ri: CF42613374, 03 (ba) tờ có cùng sê ri: EY17416716.
Tại bản kết luận giám định số: 128/GĐ-PC54, ngày 26/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Toàn bộ số tiền Việt Nam (23 tờ) trong 02 gói niêm phong gửi giám định là tiền giả.
Tại Cáo trạng số: 27/KSĐT ngày 02/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn để xét xử đối với Nguyễn Thị Phương K, Nguyễn Thế T1 về tội “Tàng trữ tiền giả” theo khoản 1 Điều 180 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố.
Phần tranh luận vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Phương K, Nguyễn Thế T1 phạm tội “Tàng trữ tiền giả” theo khoản 1 Điều 180; áp dụng các điểm g, m, p khoản 1 Điều 46; Điều 47; Điều 60 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Phương K từ 02 đến 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 đến 05 năm; xử phạt bị cáo Nguyễn Thế T1 02 đến 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 đến 05 năm. Không đề nghị xử phạt bổ sung do các bị cáo là người già, không làm ra được tài sản.
Về tang vật: Tịch thu tiêu hủy số tiền giả; còn tiền thật trả lại cho các bị cáo.
Các bị cáo tranh luận là do không hiểu biết pháp luật nên mới vi phạm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tranh luận gì.
Lời nói sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt và cho các bị cáo được hưởng án treo.
Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
XÉT THẤY
Sau khi bà Nguyễn Thị Phương K bán được 60 kg gà đã đem tiền về cất, đến ngày 23/4/2017 bà K rủ con gái đi vào tiệm vàng “H - L” tại: Khu 2, thị trấn T để mua vàng thì phát hiện có 23 tờ tiền Polime mệnh giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền Việt Nam giả có giá trị tương ứng 4.600.000 đồng tiền Việt Nam, bà K lấy số tiền trên cho vào túi đi về nhà. Khi về đến nhà lấy 22 tờ tiền giả để trên bàn và nói với chồng là Nguyễn Thế T1 “đây là tiền giả, ông cất đâu thì cất” rồi bà K mang theo 01 (một) tờ tiền giả Polime mệnh giá 200.000đ, ra chợ thị trấn T, huyện T; đến khoảng 14 giờ ngày 23/4/2017, Công an huyện Tràng Định đã phát hiện Nguyễn Thị Phương K đang cất giấu trên người 01 (một) tờ tiền Polime mệnh giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt nam giả và thu giữ của Nguyễn Thế T1 22 tờ tiền Polime mệnh giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt nam giả đang được ông T1 chôn cất tại gốc chuối trước cửa nhà ở thôn: B, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Thấy việc bà Nguyễn Thị Phương K và ông Nguyễn Thế T1 khi phát hiện số tiền bà K đi mua vàng là tiền giả thì đã mang về nhà và không báo cho chính quyền địa phương biết để thu giữ, xử lý mà lại đem đi cất giấu là đã phạm vào tội tàng trữ tiền giả theo quy định tại khoản 1 Điều 180 của Bộ luật hình sự và tại điểm 3 mục I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự quy định, người nào tàng trữ tiền giả có giá trị tương ứng dưới mười triệu đồng tiền Việt Nam thì người phạm tội chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 180 của Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo đã gây mất trật tự tại địa phương, trực tiếp xâm phạm đến quyền quản lý tiền tệ và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước, gây dư luận xấu trong nhân dân tại khu dân cư nên cần phải xử lý về hình sư đối với các bị cáo.
Qua phần thẩm vấn công khai và phần tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận thấy cáo trạng truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ tiền giả” theo khoản 1 Điều 180 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.
Xét về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có.
Xét về tình tiết giảm nhẹ: Thấy tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn, các bị cáo khi phạm tội đều là người già trên 70 tuổi và một phần cũng là nạn nhân của những kẻ tiêu thụ tiền giả và phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm g, m, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.
Về nhân thân: Các bị cáo là người đủ năng lực hành vi, có nhân thân tốt, tại địa phương luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, có nơi cư trú rõ ràng, là người quá già yếu trên 70 tuổi và hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên mới nhất thời phạm tội, là do tiếc của và một phần cũng là nạn nhân của những kẻ tiêu thụ tiền giả. Thấy cho bị cáo cải tạo giáo dục tại địa phương theo quy định tại Điều 60 của Bộ luật hình sự cũng là đáp ứng được yêu cầu phòng chống tội phạm trong xã hội.
Về hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 4 Điều 180 của Bộ luật hình sự: Thấy các bị cáo đều là người già, kinh tế khó khăn và đã quá độ tuổi lao động, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về vật chứng: Số tiền 23 tờ mệnh giá 200.000đ là tiền giả được niêm phong trong hai phong bì thư, cần tịch thu để tiêu hủy. Còn số tiền 20.013.000đ đây là tài sản của bị cáo, nên trả lại cho chủ sở hữu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Phương K, Nguyễn Thế T1 phạm tội “Tàng trữ tiền giả”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 180; các điểm g, m, p khoản 1 Điều 46; Điều 60 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Phương K 03 (Ba) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với gia đình bị cáo giám sát, giáo dục.
- Áp dụng khoản 1 Điều 180; các điểm g, m, p khoản 1 Điều 46; Điều 60 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thế T1 03 (Ba) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với gia đình bị cáo giám sát, giáo dục.
- Việc xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 41 của Bộ luật hình sự xử lý như sau:
Tịch thu để tiêu hủy 02 phong bì niêm phong mẫu vật còn nguyên vẹn, bên trong có 23 tờ tiền giả mệnh giá 200.000 đồng (Chi tiết tang vật được miêu tả theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/8/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn với Chi cục thi hành án dân sự huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn).
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Phương K 20.013.000đ (Hai mươi triệu không trăm mười ba nghìn đồng), số tiền này hiện đang tạm gửi tại tài khoản số 3949.0.1054413.00000 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tràng Định theo giấy ủy nhiệm chi số 12 ngày 08/8/2017 của Kho bạc Nhà nước huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
- Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nguyễn thị Phương K, Nguyễn Thế T1 mỗi người phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 37/2017/HSST ngày 07/09/2017 về tội tàng trữ tiền giả
Số hiệu: | 37/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về