Bản án 369/2019/HSPT ngày 19/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 369/2019/HSPT NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19-11-2019, tại trụ sở. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 349/2019/TLPT-HS ngày 14-10-2019 đối với bị cáo Trương Thị Thảo H, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2019/HSST ngày 10/09/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

- Bị cáo kháng cáo:

Trương Thị Thảo H, sinh ngày 20-9-1995, tại Quảng Nam; nơi ĐKHKTT: Thôn V, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam; tạm trú: Tổ 17, phường H1, quận H2, thành phố Đà Nẵng; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: không; con ông Trương Văn Đ và bà Lê Thị Ánh Ng.

- Tiền sự: Ngày 15-8-2017, Công an thành phố T1, tỉnh Quảng Nam xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 105/QĐ-XPHC - đã chấp hành ngày 08-11-2017).

Bị bắt tạm giam ngày 19-9-2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an thành phố Đà Nẵng, có mặt.

(Vụ án còn có bị cáo Trần Quang T2 kháng cáo, nhưng ngày 07-11-2019 rút kháng cáo).

Những người tham gia tố tụng có liên quan đến kháng cáo:

- Người bào chữa cho bị cáo Trương Thị Thảo H:

Luật sư Chế Giang S - thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng và Luật sư Trần Thị Bích T3 - thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk, đều có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đoàn Hiển V1, sinh năm 1993; địa chỉ cư trú: thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

2. Bà Võ Thị P, sinh năm 1979; địa chỉ cư trú: thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

3. Ông Lê Vĩnh H3, sinh năm 1954; địa chỉ cư trú: tỉnh Quảng Nam, vắng mặt.

4. Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1984; địa chỉ cư trú: phường H1, quận H2, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

5. Bà Lê Thị Ánh Ng, sinh năm 1972; địa chỉ cư trú: Thôn V, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam, có mặt.

6. Anh Lê Quang V2, sinh năm 1999; địa chỉ cư trú: tỉnh Quảng Nam, vắng mặt.

7. Chị Nguyễn Thị Ly N1, sinh năm 1992; địa chỉ cư trú: tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

8. Chị Trương Trần Thảo N2, sinh năm 1997; nơi ĐKHKTT: Thôn V, xã T, huyện N, Quảng Nam;l; chỗ ở: phường H1, quận H2, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 18-9-2018, tại phòng trọ thuộc nhà số 36, đường Yi, phường H1, quận H2, thành phố Đà Nẵng, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Đà Nẵng phối hợp với Công an phường H1, quận H2, thành phố Đà Nẵng tiến hành kiểm tra, phát hiện Trần Quang T2 đang có hành vi cất giấu ma túy. Tang vật tạm giữ:

- Tại gác lửng của căn phòng: 01 hộp kẹo màu xanh, bên trong có chứa 50 viên nén màu xanh trên tủ quần áo (ký hiệu A1); 01 gói nilon KT (4 cm x 8 cm), bên trong có chứa 20 viên màu xanh trong hốc Laphong của gác lửng gần cầu thang gỗ (ký hiệu A2); 02 gói nilon KT (2 cm x 3 cm), bên trong mỗi gói có chứa chất bột màu trắng tại nệm đang đặt trong phòng (ký hiệu A3); 15 gói nilon KT (4 cm x 8 cm), chưa qua sử dụng tại hốc Laphong gác lửng gần cầu thang gỗ.

- Tại xe ô tô biển kiểm soát 43A-020.54: 01 gói nilon KT (4 cm x 8 cm), bên trong có chứa 30 viên nén màu xanh được bỏ vào trong khẩu trang gồm 02 màu trắng xanh và bỏ trong gói giấy màu xanh tại giữa ghế tài và ghế phụ gần cần thắng tay của xe (ký hiệu A1); 01 Giấy chứng nhận đăng kiểm số 5597692 và 01 Giấy phép lái xe cấp cho Trần Quang T2. - Trong người Trần Quang T2: 01 gói nilon KT (2 cm x 3 cm), bên trong có chứa chất bột màu trắng tại sổ tay trong ví của T2 (ký hiệu A4); 01 điện thoại di động hiệu Nokia sim số 0905.698.671 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone sim số 01283534844.

Ngày 19-9-2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đà Nẵng ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Trương Thị Thảo H, tạm giữ: 01 CMND số 205823671 mang tên Trương Thị Thảo H và 11.0000.000 đồng.

Qua điều tra xác định:i Từ ngày 15-8-2018 đến ngày 18-9-2018, Trần Quang T2 02 (hai) lần mua ma túy của đối tượng tên Vũ (chưa rõ nhân thân, lai lịch) về bán lại cho các đối tượng nghiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để kiếm lời. Trương Thị Thảo H biết T2 mua bán ma túy, nhưng vẫn giúp sức, cụ thể:

1. Lần thứ nhất: Ngày 15-8-2018, Trần Quang T2 điện thoại cho Vũ hỏi mua 110 viên ma túy thuốc lắc và 03 chỉ ma túy Ketamine. Vũ đồng ý bán với giá 44.500.000 đồng (trong đó 110 viên thuốc lắc giá 38.500.000 đồng, 03 chỉ ma túy Ketamine giá 6.000.000 đồng). Do chưa có tiền, nên T2 xin nợ lại khi nào bán hết số ma túy sẽ trả tiền cho Vũ. Vũ đồng ý và hẹn T2 đến chợ V3, thị xã Đ1, tỉnh Quảng Nam để nhận ma túy. Sau khi có ma túy, T2 đem về vừa sử dụng vừa bán cho các đối tượng nghiện (không rõ nhân thân, lai lịch), với giá 370.000 đồng/viên thuốc lắc và 2.200.000 đồng/chỉ ma túy Ketamine, còn lại 15 viên thuốc lắc và 01 gói ma túy Ketamine, T2 cất giấu trong người.

Sau khi bán ma túy được nửa tháng, T2 nói cho Trương Thị Thảo H biết việc T2 bán ma túy. Tối ngày 16-9-2018, tại số nhà 60/9, đường M, phường Th1, quận Th2, thành phố Đà Nẵng, T2 đưa cho H giữ 33.500.000 đồng để trả nợ tiền mua ma túy cho Vũ. Sáng ngày 17-9-2018, T2 điện thoại cho Vũ nói chiều đến trả 33.500.000 đồng cho Vũ và xin nợ lại 11.000.000 đồng, Vũ đồng ý. Chiều ngày 17-9-2018, T2 điều khiển xe ô tô, biển kiểm soát 43A-020.54 chở H đến chợ V3, thị xã Đ1, tỉnh Quảng Nam gặp Vũ. Lúc này, Vũ cũng điều khiển xe ô tô (không rõ biển kiểm soát) đi đến đậu phía trước xe của T2, T2 xuống xe đem tiền đến đưa cho Vũ rồi quay lại chở H đi đến khách sạn thuộc thị xã Đ1, tỉnh Quảng Nam để H vào thuê phòng, còn T2 đi lấy tiền của những người nợ T2 trước đó. Khi đến trước Ngân hàng Vietcombank, thì xe ô tô do T2 điều khiển va chạm với xe khác nên T2 nhờ Lê Quang V2 (sinh năm 1999; địa chỉ cư trú: xã Đ2, thị xã Đ1, tỉnh Quảng Nam) đến giải quyết rồi T2 mượn xe máy của V2 tiếp tục đi lấy tiền nợ. Lúc này, Ny (chưa rõ nhân thân, lai lịch) điện thoại cho T2 hỏi mua 15 viên thuốc lắc, hai bên thỏa thuận giá 5.550.000 đồng và hẹn đến Bar Phương Đông, đường Đống Đa, thành phố Đà Nẵng để thực hiện việc mua bán. Sau đó, T2 về khách sạn chở H đến gặp V2 tại 01 quán phở để đổi xe. V2 đưa cho T2 l.000.000 đồng (là tiền T2 đưa cho V2 để giải quyết va chạm xe trước đó) rồi T2 điều khiển xe ô tô chở H đến điểm hẹn giao ma túy cho Ny và lấy 5.550.000 đồng, T2 đưa toàn bộ số tiền cho H cất giữ.

2. Ln thứ 2: Tối ngày 17-9-2018, Trần Quang T2 và Trương Thị Thảo H đang ở khách sạn tại thị xã Đ1, tỉnh Quảng Nam, thì đối tượng tên Thùy (không rõ nhân thân, lai lịch) điện thoại cho T2 hỏi mua 80 viên thuốc lắc và 02 chỉ ma túy Ketamine, T2 đồng ý bán với giá 34.000.000 đồng, Thùy nói lấy trước 30 viên. Sau đó, T2 điện thoại cho Vũ hỏi mua 100 viên thuốc lắc và 02 chỉ Ketamine. Hai bên thỏa thuận giá 39.000.000 đồng (trong đó 100 viên thuốc lắc giá 35.000.000 đồng, 02 chỉ Ketamine giá 4.000.000 đồng), Vũ yêu cầu T2 trả luôn số tiền nợ lần trước (11.000.000 đồng), T2 đồng ý. Sáng ngày 18-9-2018, H đưa cho T2 40.000.000 đồng, T2 điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 43A-020.54 chở H đến quán cà phê ở thị xã Đ1, tỉnh Quảng Nam gặp V2 lấy 10.000.000 đồng (V2 nợ trước đó), sau đó chở H đến chợ V3, thị xã Đ1, tỉnh Quảng Nam để gặp Vũ. Khoảng 15 phút sau, Vũ điều khiển xe ô tô màu đen (không rõ biển kiểm soát) đến đậu phía trước xe của T2. T2 xuống xe đem 50.000.000 đồng đến đưa cho Vũ, Vũ bảo chiều giao ma túy. Sau đó, T2 điều khiển xe ô tô chở H về nhà T2 tại Thôn Tr, xã Đ2, thị xã Đ1, tỉnh Quảng Nam để chở em của T2 là Trần Quang T4 đến Bệnh viện Đà Nẵng để khám bệnh. Sau khi làm thủ tục đăng ký và khám bệnh cho T4 xong, T2 cùng H chở T4 về lại nhà. Đến khoảng 17 giờ 30 phút ngày 18-9-2018, T2 điện thoại cho Vũ để lấy ma túy, Vũ nói đến đường tránh V3 gặp Luận (không rõ nhân thân, lai lịch) để lấy ma túy và cho T2 số điện thoại của Luận. T2 điều khiển xe ô tô chở H đến điểm hẹn gặp Luận. Luận bảo T2 chạy vào thị trấn N3, tỉnh Quảng Nam. Khi đến ngã ba thị trấn N3, Luận xuống xe đi vào con hẻm nhỏ gần đó, khoảng 20 phút sau, Luận đi ra cùng một người phụ nữ (không rõ nhân thân, lai lịch), Luận đưa cho T2 01 túi xách bên trong có 100 viên thuốc lắc và 02 gói ma túy Ketamine rồi nhờ T2 chở Luận và người phụ nữ về lại đường tránh V3. Khi đến đường tránh V3 thì Luận và người phụ nữ xuông xe, còn T2 chở H về thành phố Đà Nẵng. Trên đường về, T2 bảo H chia ma túy ra 01 gói 30 viên thuốc lắc, 01 gói 20 viên thuốc lắc, số còn lại gồm 50 viên thuốc lắc và 02 gói ma túy Ketamine bỏ vào trong hộp kẹo, H thực hiện theo yêu cầu của T2. Khi về đến phòng trọ của H (số 36, đường Yi, phường H1, quận H2, thành phố Đà Nẵng), T2 bỏ lại trên xe ô tô 30 viên thuốc lắc để chuẩn bị đi giao cho Thùy và bảo H đem hộp kẹo bên trong có 50 viên thuốc lắc và 02 gói ma túy Ketamine vào nhà cất. H mang 50 viên thuốc lắc và 02 gói ma túy Ketamine cất trên gác lửng của phòng trọ. T2 đi vào sau đem theo 20 viên thuốc lắc vào giấu ở hốc Laphong gần cầu thang. Đến 19 giờ 30 phút ngày 18-9-2018, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Đà Nẵng phối hợp với Công an phường H1, quận H2, thành phố Đà Nẵng phát hiện bắt quả tang T2 và H cất giấu số ma túy trên. Ngoài ra, thu giữ trong ví của T2 01 gói ma túy Ketamine (số ma túy còn lại từ lần mua trước). Tại Kết luận giám định số 186/GĐ-MT ngày 25-9-2018, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Các viên nén màu xanh trong gói niêm phong ký hiệu A1, A2 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng viên nén A: 33,044 gam; A2: 8,160 gam; chất bột màu trắng trong gói niêm phong ký hiệu A3, A4 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng chất bột A3: 0,831 gam; A4: 0,270 gam.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2019/HSST ngày 10-9-2019, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng:

Áp dụng điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Trần Quang T2 16 (mười sáu) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18-9-2018.

+ Phạt bổ sung Trần Quang T2 số tiền 10.000.000 đồng.

- Xử phạt: Trương Thị Thảo H l5 (mười lăm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19-9-2018.

+ Phạt bổ sung Trương Thị Thảo H số tiền 5.000.000 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí hình sự và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 16-9-2019, Trương Thị Thảo H kháng cáo xin giảm hình phạt.

- Ngày 21-9-2019, Trần Quang T2 kháng cáo xin giảm hình phạt; ngày 07-11-2019, bị cáo rút kháng cáo; Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của Trương Thị Thảo H; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

- Trương Thị Thảo H thừa nhận hành vi phạm tội và đồng ý với tội danh như Tòa án cấp sơ thẩm đã kết luận. Bị cáo và các Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng bị cáo chỉ là người giữ vai trò giúp sức, tham gia với vai trò đồng phạm không đáng kể, thực hiện hành vi phạm tội do lệ thuộc vào Trần Quang T2. Lần thứ nhất, bị cáo không tham gia mua và bán ma túy; lần thứ hai, bị cáo đi theo Trần Quang T2 vào thị xã Đ1, tỉnh Quảng Nam để đưa em trai của T2 đi khám bệnh, sau đó T2 chở bị cáo vào thị trấn N3 lấy ma túy và lần phạm tội này bị cáo không được T2 trao đổi, bàn bạc trước, chỉ khi trên đường về Đà Nẵng, do T2 nhờ chia ma túy ra thì bị cáo mới biết; đồng thời, số ma túy này chưa kịp tiêu thụ thì bị bắt quả tang, nên chưa gây hậu quả. Ngoài ra, bị cáo còn cho rằng đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ làm nông; gia đình bị cáo có công với cách mạng, được tặng thưởng huân huy chương kháng chiến và là cháu của bà mẹ Việt Nam anh hùng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét, giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Trương Thị Thảo H là bạn gái của Trần Quang T2, mặc dù biết T2 mua bán trái phép chất ma túy, nhưng vẫn giúp sức cho T2. Lần thứ nhất H cất giữ tiền do Trần Quang T2 bán ma túy mà có, lần thứ hai H đi cùng T2 mua bán ma túy thì bị phát hiện bắt giữ. Tại Kết luận giám định số 186/GĐ-MT ngày 25-9-2018, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Các viên nén màu xanh trong gói niêm phong ký hiệu A1, A2 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng viên nén A1: 33,044 gam, A2: 8,160 gam; chất bột màu trắng trong gói niêm phong ký hiệu A3, A4 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng chất bột A3: 0,831 gam, A4: 0,270 gam.

Vi hành vi phạm tội như nêu trên, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng kết án Trương Thị Thảo H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Ngày 16-9-2019, Trương Thị Thảo H kháng cáo xin giảm hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo Trương Thị Thảo H, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

Ngày 15-8-2018, Trần Quang T2 liên lạc để mua của Vũ (chưa xác định được nhân thân, lai lịch), với số lượng 110 viên ma túy thuốc lắc và 03 chỉ Katemine, với giá 44.500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T2 vừa sử dụng vừa bán lại cho các đối tượng nghiện. Số tiền bán ma túy, T2 đưa cho Trương Thị Thảo H cất giữ. Tiếp đó, tối ngày 17-9-2018, T2 mua 100 viên thuốc lắc và 02 chỉ Katemine của Vũ, với giá 39.000.000 đồng rồi yêu cầu Trương Thị Thảo H chia số ma túy trên thành 02 gói (01 gói 30 viên, 01 gói 20 viên). Số ma túy còn lại (50 viên thuốc lắc và 02 chỉ Katemine), H bỏ vào trong hộp kẹo. Khi xe về đến phòng trọ, H mang hộp kẹo có chứa thuốc lắc và Katemine vào nhà cất giấu, còn T2 để lại trên xe ô tô 30 viên thuốc lắc để chuẩn bị đi giao cho một người phụ nữ tên Thùy mà T2 đã giao dịch trước đó, còn 20 viên T2 mang theo vào nhà và cất giấu thì bị phát hiện bắt quả tang.

Ti Kết luận giám định số 186/GĐ-MT ngày 25-9-2018, Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Đà Nẵng xác định: Các viên nén thu giữ (niêm phong ký hiệu A1 và A2) là ma túy thuốc lắc loại MDMA, có tổng trọng lượng là 41,204 gam (A1 = 33,044 gam, A4 = 8,160 gam); chất bột màu trắng (niêm phong ký hiệu A3 và A4) là ma túy loại Katemine, có tổng trọng lượng là 1,101 gam (A3 = 0,831 gam, A4 = 0,270 gam).

Đây là vụ án đồng phạm, trong đó Trương Thị Thảo H là bạn gái của Trần Quang T2, biết T2 mua bán trái phép chất ma túy, nhưng vẫn giúp sức cho T2 như: cất giữ tiền mua bán ma túy, cùng với T2 đi trả tiền mua ma túy, đi nhận ma túy và phân chia ma túy ra thành các gói nhỏ theo yêu cầu của T2, do đó bị cáo là đồng phạm với vai trò giúp sức.

Ma túy là loại chất gây nghiện đặc biệt nguy hiểm; mặc dù, biết rõ pháp luật nghiêm cấm và xử lý thích đáng đối với mọi hành vi mua bán, tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy. Mặc dù, biết Trần Quang T2 mua bán ma tuy để thu lời bất chính nhưng vì nể bạn, Trương Thị Thảo H đã giúp sức cho Trần Quang T2 mua đi, bán lại các loại ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội; trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước; làm ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội.

Mặc dù, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có công với cách mạng, được tặng thưởng huân huy chương kháng chiến và là cháu của bà mẹ Việt Nam anh hùng; hoàn cảnh gia đình có nhiều khó khăn, nhưng với hành vi phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng như đã nêu trên; cùng với nhân thân của bị cáo đã từng bị xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thì hình phạt 15 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là mức khởi điểm của khung hình phạt và tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình mới; đồng thời, với hành vi phạm tội nhiều lần, trọng lượng ma túy bị cáo mua bán tương đối lớn (41,204 gam ma túy loại MDMA và 1,101 gam ma túy loại Ketamine), Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ không giảm hình phạt cho bị cáo. Có như vậy mới đủ tác dụng để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, cũng như ngăn chặn và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này tại địa phương.

Như vậy, kháng cáo của Trương Thị Thảo H đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét, nhưng không có cơ sở để chấp nhận.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[4]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận, nên Trương Thị Thảo H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Thị Thảo H.

- Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2019/HS-ST ngày 10-9-2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về phần Trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Trương Thị Thảo H.

2. Áp dụng điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Trương Thị Thảo H 15 (mười lăm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19-9-2018.

- Phạt bổ sung đối với Trương Thị Thảo H số tiền 10.000.000 đồng.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Trương Thị Thảo H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 369/2019/HSPT ngày 19/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:369/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;