Bản án 367/2019/HNGĐ-PT ngày 26/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 367/2019/HNGĐ-PT NGÀY 26/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong các ngày 04 và ngày 26 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 03/2019/TLPT-HNGĐ ngày 03/01/2019 về tranh chấp ly hôn.

Do bản án sơ thẩm số 1201/2018/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân Quận U, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1006/2019/QĐ-PT ngày 07/03/2019 giữa:

1. Nguyên đơn: Ông Phùng Minh P, sinh năm 1969 (có mặt).

Địa chỉ thường trú: Phường 14, Quận U, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ liên hệ: Phường 15, Quận U, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Trí Đ của Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên 360 thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

2. Bị đơn: Bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1968 (vắng mặt).

Địa chỉ thường trú: Phường 14, Quận U, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Người kháng cáo: Nguyên đơn – Ông Phùng Minh P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Phùng Minh P trình bày: Ông và bà Huỳnh Thị H kết hôn năm 1991 được UBND phường 14, Quận U, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 68, ngày 20/11/1991.

Quá trình chung sống giữa ông và bà H có nhiều quan điểm bất đồng, khó có thể hòa hợp, vợ chồng thường có lời qua tiếng lại làm ảnh hưởng đến tình cảm. Ông P và bà H đã ly thân hơn 08 năm nay, hiện tình cảm vợ chồng không còn nên ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà H.

Về con chung: Có 02 người con chung tên Phùng Huỳnh Minh Q1 (nữ), sinh ngày 20/9/1992 và Phùng Huỳnh Minh Q2 (nam), sinh ngày 09/11/1995. Các con đã thành niên.

Về tài sản chung, nợ chung và các nghĩa vụ dân sự: Ông P khai không có. Tại bản khai ngày 20/6/2018 bà Huỳnh Thị H trình bày: bà H thừa nhận về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung đúng như lời trình bày của ông P.

Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, theo bà H thì vợ chồng không có mâu thuẫn vẫn hạnh phúc, ông P vẫn chung sống và sinh hoạt với bà H và các con tại nhà số 40D/4 ND, Phường 14, Quận U, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H không muốn ly hôn vì còn thương yêu chồng con và không muốn các con không có tình thương của cha.

Về nợ chung: Bà H khai có nợ những người sau: Bà Ngô Thị D, số tiền vay 20 lượng vàng SJC, bà Lê Thị L, số tiền vay 05 lượng vàng, ông Hồ Tấn L, số tiền vay 32.000.000 đồng và 05 chỉ vàng, bà Huỳnh Thi L số tiền vay 22.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị L số tiền vay 01 lượng vàng SJC, bà Bành Thị Tuyết V số tiền vay 19.500.000 đồng.

Tại bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 1201/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận U, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu của ông Phùng Minh P xin ly hôn bà Huỳnh Thị H.

2. Án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) ông Phùng Minh P phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0014561 ngày 17/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận U. Ông Phùng Minh P đã nộp đủ án phí.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 06/12/2018, nguyên đơn ông Phùng Minh P kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên Tòa phúc thẩm:

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn luật sư Nguyễn Trí Đ trình bày nội dung kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông P được ly hôn với bà H.

Nguyên đơn, ông P trình bày vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin đươc ly hôn.

Bị đơn bà Huỳnh Thị Hcó đơn xin vắng mặt.

Tại phần tranh luận:

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn luật sư Nguyễn Trí Đ trình bày:

Việc trình bày của vợ và con ông P là hoàn toàn không đúng và mâu thuẫn với thực tế. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông P, cho ông P ly hôn với bà H để giải thoát cho ông P trong cuộc hôn nhân này vì thực tế vợ chồng đã không còn hạnh phúc, mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng không thể hàn gắn được.

Ông P trình bày đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông. 

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án,  Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo qui định của pháp luật.

Về nội dung: Việc mâu thuẫn gia đình giữa ông P và bà H là xuất phát từ 2 bên, ông P xác nhận cũng có một phần lỗi của bản thân. Xét thấy, ông P chưa có biện pháp giải quyết triệt để mâu thuẫn nên cần có thêm thời gian để vợ chồng giải quyết, hàn gắn mâu thuẫn.

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông P, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 1201/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận U, Thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn số 68 của Ủy ban nhân dân phường 14, Quận U, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Phùng Minh P và bà Huỳnh Thị H ngày 20/11/1991 đủ cơ sở khẳng định hôn nhân giữa ông P và bà H là hợp pháp.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của ông P xin đươc ly hôn với bà H: Theo lời trình bày của ông P lý do xin ly hôn giữa ông và bà H là do bất đồng quan điểm, khó hòa hợp, vợ chồng thường có lời qua tiếng lại làm ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng, ông và bà H đã ly thân hơn 08 năm.

Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên Tòa phúc thẩm ông P không trình bày được những mâu thuẫn trầm trọng giữa vợ chồng, hoặc những hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền nghĩa vụ của vợ chồng làm cho cuộc hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng mà không thể hàn gắn được có chăng đó chỉ là những mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống thường ngày. Ngoài ra, ông P không có chứng cứ gì để chứng minh cho việc đã ly thân với bà H hơn 08 năm.

Căn cứ vào công văn phúc đáp của Ủy ban nhân dân Phường 14, Quận U nhận thấy giữa ông P và bà H cũng chưa đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp mâu thuẫn gì.

Do đó, cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông P, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Tại phiên Tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có cơ sở.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm:  Do yêu cầu kháng cáo của ông P không được chấp nhận nên ông P phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 293; khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân; Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật thi hành án dân sự;

Xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Phùng Minh P.

2. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 1201/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận U, Thành phố Hồ Chí Minh.

2.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phùng Minh P xin ly hôn bà Huỳnh Thị H.

2.2 Án phí dân sự sơ thẩm:  là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), ông Phùng Minh P chịu và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là  300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2017/0014561 ngày 17/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận U, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông P đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

3. Án phí dân sự phúc thẩm: là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) ông Phùng Minh P chịu và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) của ông P đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0018708 ngày 06/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận U, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông P đã nộp đủ án phí phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự đươc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 367/2019/HNGĐ-PT ngày 26/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:367/2019/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;