Bản án 363/2018/HSST ngày 26/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 363/2018/HSST NGÀY 26/09/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2018 tại hội T Tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 346/2018/TLST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 360/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo: 

Phạm Xuân T, sinh ngày 08 tháng 11 năm 1996

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ dân phố C, thị trấn S, huyện SD, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Cao Lan; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa 6/12. Con ông Phạm Ngọc Đ, sinh năm 1966. Con bà Hoàng Thị Hồng T, sinh năm 1967; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; Chưa có vợ, con.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên từ ngày 5/6/2018 đến nay

(Có mặt tại phiên tòa)

Người chứng kiến: Ông Ngô Gia T, sinh năm 1956

Địa chỉ: Tổ 27, phường P, thành phố TN, Thái Nguyên

(Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 05 tháng 6 năm 2018, tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố TN đang tuần tra làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 04, phường H, thành phố TN thì phát hiện có 01 nam thanh niên biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, nam thanh niên khai tên là Phạm Xuân T và tự giác giao nộp cho tổ công tác từ túi quần bên phải, phía trước T đang mặc 01 hộp nhựa bên trong chứa 05 gói giấy bạc màu vàng, 18 gói giấy bạc màu trắng, 18 gói giấy màu đỏ, 03 gói giấy màu xanh bên trong các gói đều chứa chất bột màu trắng. T khai đó là ma túy Heroine. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của T số tiền 1.500.000 đồng.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN đã lập biên bản mở niêm phong, cân số chất bột màu trắng thu giữ của T có khối lượng 5,855 gam. Lấy toàn bộ số chất bột màu trắng trên đưa vào trong bì niêm phong kín ký hiệu T1 để gửi giám định phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Thái Nguyên

Tại bản kết luận giám định số 737/KL-PC54 ngày 11/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu T1 gửi giám định là chất ma tuý, loại Heroine, có khối lượng 5,855 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Xuân T khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy, không có việc làm ổn định. Khoảng 06 giờ ngày 05 tháng 6 năm 2018, T đi từ nhà ở Tổ dân phố C, thị trấn S, huyện SD, tỉnh Tuyên Quang xuống khu vực ngã tư đèn xanh đỏ gần trụ sở Công an phòng cháy chữa cháy cũ thuộc phường H, thành phố TN, gặp và mua của một người phụ nữ không rõ lai lịch, địa chỉ chỉ biết tên là Th 50 gói ma túy Heroine với giá 8.000.000 đồng để sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời. Khi mua được ma túy, T lấy 01 gói Heroin sử dụng cho bản thân, sử dụng xong T mang số Heroin còn lại đi bán lẻ dọc theo đường Lương Ngọc Quyến, T đã bán 05 gói Heroin cho 5 người không quen biêt với số tiền 1.500.000 đồng. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, khi T đang đứng cạnh đèn xanh đỏ gần T Đại học sư phạm thuộc tổ 4, phường H, thành phố TN để đợi người đến mua ma túy của T thì bị tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố TN phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai của Phạm Xuân T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 349/CT-VKSTPTN ngày 19/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố Phạm Xuân T về tội "Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm i, khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả.

Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích đánh giá chứng cứ xác định bị cáo Phạm Xuân T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Xuân T phạm tội ”Mua bán trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt Phạm Xuân T từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2018.

Bị cáo phạm tội thu lợi bất chính nên cần áp dụng hình phạt bổ sung buộc bị cáo phải nộp 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

- Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T1 bên trong chứa chất ma túy loại Heroin.

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận thừa nhận việc truy tố là không oan, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất sớm trở về với gia đình và xã hội.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như biên bản khám xét, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định vào khoảng 9 giờ ngày 05 tháng 6 năm 2018, tại tổ 4, phường H, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên, Phạm Xuân T đang có hành vi tàng trữ trái phép 5,855 gam Heroine mục đích để bán kiếm lời thì bị tổ công tác của Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang, thu giữ niêm phong toàn bộ vật chứng cùng 1.500.000đ là tiền T khai nhận vừa bán ma túy trước đó.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Sau khi mua được ma túy, Phạm XuânT đã lấy 01 gói ma túy để sử dụng cho bản thân và bán được 05 gói ma túy cho 05 người đàn ông không quen biết, số ma túy còn lại 5,855gam Phạm Xuân T đang tàng trữ với mục đích để bán thu lời bất chính. Bị cáo đã biết ma túy là chất cấm, được Nhà nước quản lý nhưng vẫn mua ma túy về bán kiếm lời, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, làm gia tăng tội phạm và tệ nạn xã hội, gây mất an toàn trật tự tại địa phương. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015. Viện kiểm sát thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các T hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

i) Heroine…..có khối lương từ 05gam đến dưới 30gam;”.

Ngoài ra, hành vi của bị cáo còn là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác gây nhức nhối trong xã hội. Nên cần có hình phạt tương xứng với tội trạng của bị cáo gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Phạm Xuân T chưa có tiền án tiền sự, nhưng bản thân là đối tượng nghiện ma túy, lười lao động, hám lời bất chính nên không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân. Tuy nhiên, tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, xác định lời khai tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là đúng, không quanh co, đổ lỗi cho người khác và xác định việc bị cáo phạm tội là do ý thức chủ quan của bị cáo, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, nên Hội đồng xét xử cân nhắc cho bị cáo hưởng mức án phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

Trong vụ án, T khai đã bán Heroine cho 5 người đàn ông với giá 1.500.000đ. Quá trình điều tra không xác định được lại lịch của những người đã mua Heroine của T nên không có cơ sở làm rõ xử lý.

Đối với người phụ nữ tên Th, là người đã bán ma túy cho T, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người phụ nữ này, cơ quan cảnh sát Điều tra, công an thành phố TN sẽ tiếp tục xác minh làm để rõ xử lý.

Ngoài ra T khai, khoảng 10 ngày trước khi bị bắt T đã 02 lần bán ma túy, nhưng không xác định được số tiền bán và cũng không biết nhân thân, lại lịch của người đã mua ma túy của T, cơ quan Điều tra không thu giữ được vật chứng gì khác do vậy không có cơ sở để xử lý hình sự hành vi đó của T.

[4] Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

- Cần tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T1 là chất ma túy loại Heroin.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 1.500.000đ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là tiền T bán ma túy mà có. [5] Về hình phạt bổ sung và án phí

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích thu lời bất chính do đó cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 BLHS năm 2015 đối với bị cáo. Tuy nhiên bị cáo khai không có tài sản riêng, không có nghề nghiệp ổn định do vậy Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc mức tiền phạt phù hợp.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Xuân T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy"

1. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm i khoản 2, khoản 5 Điều 251; Điểm s, khoản 1 Điều 51 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Phạm Xuân T 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2018;

Phạt bổ sung bị cáo Phạm Xuân T 5.000.000đ (Năm triệu đồng) nộp ngân sách nhà nước.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định tạm giam bị cáo Phạm Xuân T 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T1 là chất ma túy.

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 1.500.000đ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Hiện số vật chứng trên đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 356 ngày 23/8/2018 và ủy nhiệm chi số 89 ngày 21/8/2018.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phạm Xuân T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 363/2018/HSST ngày 26/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:363/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;