Bản án 36/2023/HS-ST về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 36/2023/HS-ST NGÀY 30/05/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu Trung tâm Phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang kết nối với điểm cầu thành phần tại Trại tạm giam công an tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm (trực tuyến) công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2023/TLST-HS, ngày 11 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2023/QĐXXST-HS, ngày 16 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Đặng Xuân T, sinh ngày 19/3/2001 tại huyện H, tỉnh T; nơi cư trú: Thôn C, xã T, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp; Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Quang A, sinh năm: 1980; con bà Nguyễn Thị G, sinh năm: 1983; vợ, con: chưa có; tiền sự, tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2022 đến nay (có mặt).

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Trần Thị H, sinh năm 2008; nơi cư trú: Xóm N, xã Đ, huyện S, tỉnh T (vắng mặt).

2. Trần Thị P, sinh năm 2005; trú tại Thôn Y , xã Đ, huyện S, tỉnh T (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 15/12/2022, Đặng Xuân T ngồi ăn đêm, uống rượu tại Km13 đường Tuyên Quang - Hà Giang, thuộc thị trấn Yên Sơn, huyện Yên Sơn cùng Phạm Tiến Đ (sinh năm 2001; trú tại tổ dân phố L, thị trấn Y, huyện Y); Đặng Trung K (sinh năm 200; trú tại tổ dân phố T, thị trấn Y, huyện Y); Nguyễn Văn K1 (sinh năm 2002; trú tại thôn N, xã T, huyện Y); Nguyễn Duy A (sinh năm 2002; trú tại thôn L, xã T, huyện Y) và Đặng Chí Q (sinh năm 2002; trú tại thôn 12, xã T, huyện Y). Trong lúc ăn uống, T rủ mọi người sau khi uống rượu xong thì đi sử dụng ma túy tổng hợp, sau đó T đi sang bàn bên cạnh gặp một nam thanh niên không quen biết khoảng 30 tuổi, giống người nghiện đang ngồi ăn một mình. T hỏi và mua được 04 viên ma túy “Kẹo” đựng trong 01 túi nilon màu trắng có mép viền màu xanh và 02 túi nhỏ ma túy Ketamine đựng trong 02 túi nilon nhỏ có mép viền màu xanh với số tiền 5.200.000đ (Năm triệu hai trăm nghìn đồng) mua được ma túy, T giấu vào túi quần đang mặc, rồi quay lại bàn uống rượu cùng nhóm bạn và nói với mọi người đã mua được ma túy, bây giờ tìm chỗ để sử dụng.

Sau đó, T dùng điện thoại chụp lại gói ma tuý vừa mua được và gửi qua ứng dụng Messenger mạng xã hội Facebook cho Trần Thị H (sinh ngày 22/7/2008; trú tại: Xóm N, xã Đ, huyện S, tỉnh T) rủ đi sử dụng ma tuý (đi bay lắc), H đồng ý. Khoảng 15 phút sau, T đi xe taxi cùng Q và A đi đón H, những người còn lại đi xe ô tô do K1. Khi đón H có Trần Thị P (sinh ngày 03/6/2005; trú tại thôn Y, xã Đ, huyện S, tỉnh T) là bạn của H đi cùng. Đón được H và P, T nói với mọi người đi đến nhà nghỉ T-H (thuộc thôn 20, xã Đ, huyện H Yên là nhà nghỉ T quen từ trước) để thuê phòng nghỉ sử dụng ma túy. Khi đến cổng nhà nghỉ T- H, T gọi điện thoại cho Đinh Giang H (sinh năm 1982; trú tại thôn 20, xã Đ, huyện H) là quản lý nhà nghỉ, H mở cổng cho T và nhóm bạn của T thuê phòng 101, 103 và 107. T cùng H, P và A vào phòng 103, sau đó T để túi ma túy trên giường rồi đi rửa chân tay. Khoảng 15 phút sau, K1, K, Đ, Bùi Chiến T (sinh năm 2006; trú tại thôn N, xã T, huyện Y); Hoàng Hương G (sinh năm 2008; trú tại tổ 13, phường A, thành phố T) và Trần Đỗ Hồng A (sinh năm 2008; trú tại tổ 10, phường T, thành phố T) đi cùng K1 đến nhà nghỉ T- H. Lúc này T và A bê đệm từ phòng 103 sang phòng 101 để cho mọi người cùng nhau ở chung một phòng, T ra ngoài hỏi Đinh Giang H để mượn đĩa và lấy loa mà T đã gửi tại nhà nghỉ từ trước cầm vào phòng 101. Sau khi lấy được đĩa và loa, T đi vào nhà vệ sinh trong phòng 101, dùng bật lửa đốt giấy vệ sinh hơ nóng chiếc đĩa và mở 01 gói ma túy Ketamine đổ hết ra đĩa để “xào ke” và hỏi mượn một chiếc thẻ nhựa cứng của một người trong phòng (không nhớ mượn của ai) cán nhỏ ma túy Ketamine, chia thành nhiều đường thẳng trên đĩa. Sau khi “xào” ma túy xong, T cầm một viên ma túy kẹo ở trên bàn cho vào miệng sử dụng bằng hình thức uống cùng nước ngọt rino vào cơ thể. Sau đó, T lấy tờ tiền 5.000đ (Năm nghìn đồng) cuộn thành dạng ống hút và sử dụng hai đường ma túy Ketamine bằng hình thức hít trực tiếp vào cơ thể qua mũi, sử dụng xong, T đặt đĩa ma túy Ketamine xuống bàn và nằm trên giường nghe nhạc. Sau đó lần lượt P và H mỗi người sử dụng 01 nửa viên ma túy kẹo, một lúc sau P và H thay nhau cầm đĩa ma túy Ketamine sử dụng bằng hình thức hít trực tiếp vào cơ thể. Nhóm bạn của T gồm Đ, Q, K, A, Th, Hồng A và G sợ bị phát hiện nên không sử dụng ma túy mà cùng nhau đi ra khỏi phòng 101 để đi về. Một lúc sau T tỉnh dậy thấy túi ma túy kẹo trên bàn nên sử dụng toàn bộ bằng hình thức đổ trực tiếp vào miệng và uống cùng nước sau đó cầm túi đựng ma túy kẹo đi ra nhà về sinh cho vào bồn cầu và xả nước, sau đó quay lại giường tiếp tục nằm nghe nhạc, khi đó trong phòng chỉ còn Hảo và Phương.

Hồi 04 giờ ngày 16/12/2022, tổ Công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy, Công an tỉnh Tuyên Quang phối hợp với Công an xã Đ, huyện H tiến hành kiểm tra phòng nghỉ 101 nhà nghỉ T-H phát hiện T, P, H có dấu hiệu liên quan đến ma túy nên đã mời người chứng kiến lập biên bản kiểm tra, quá trình kiểm tra phát hiện và niêm phong các vật chứng gồm: 01 đĩa sứ màu trắng trên bề mặt đĩa bám dính chất tinh thể màu trắng, trên đĩa sứ có 01 (một) ống hút được cuộn bằng tờ tiền 5.000đ tại vị trí dưới gầm giường; 01 túi nilon nhỏ màu trắng mép túi có đường viền màu xanh bên trong chứa chất tinh thể màu trắng tại vị trí trên mặt bàn gỗ, tổ công tác đã thu toàn bộ số chất tinh thể màu trắng trên đĩa xứ cho vào túi nilon (ký hiệu M1); 01 túi nilon nhỏ màu trắng mép túi có đường viền màu xanh bên trong chứa chất tinh thể màu trắng phát hiện trên mặt bàn gỗ kê ở góc tường trong phòng 101 (ký hiệu M2); tạm giữ 01 loa; 01 máy chiếu Laze; 03 điện thoại của. Tổ công tác yêu cầu T, Hảo, Phương về trụ sở Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tuyên Quang để làm việc. Quá trình làm việc T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và khai số ma tuý thu giữ mục đích để tổ chức cho bản thân và người sử dụng hết nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện thu giữ.

Tiến hành xét nghiệm nước tiểu tìm chất ma túy trong cơ thể đối với Đặng Xuân T, Trần Thị H, Trần Thị P đều cho kết quả (+) dương tính với chất ma túy.

Tại Kết luận giám định số 25/KL-GĐKTHS, ngày 20/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật trong bì niêm phong Ký hiệu M1 thu giữ của Đặng Xuân T tại phòng 101, nhà nghỉ Thắng Hương gửi giám định là chất ma tuý, loại Ketamine; khối lượng 0,366g (không phẩy ba sáu sáu gam); mẫu vật trong bì niêm phong Ký hiệu M2 thu giữ của Đặng Xuân T tại phòng 101, nhà nghỉ Thắng Hương gửi giám định là chất ma tuý, loại Ketamine; khối lượng 0,561g (không phẩy năm sáu một gam). Tổng khối lượng ma túy Ketamine thu giữ của Đặng Xuân T tại phòng 101, nhà nghỉ Thắng Hương là 0,927g (không phẩy chín hai bảy gam).

Tại Cáo trạng số 30/CT-VKSHY, ngày 10/5/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố Đặng Xuân T về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo tội danh, điều luật và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Đặng Xuân T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Đặng Xuân T từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung.

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong; 01 (một) đĩa sứ màu trắng.

+ Tịch thu bán hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động; 01 loa màu đen; 01 đèn chiếu Laser; tịch thu sung quỹ nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị HĐXX xem xét trách nhiệm chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Xuân T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt cũng như các vấn đề khác.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị H, Trần Thị P khai tại cơ quan điều tra phù hợp lời khai của bị cáo và nội dung vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về việc xem xét hành vi của Đặng Xuân T Ngoài lời khai nhận của bị cáo, hành vi phạm tội của Đặng Xuân T còn được chứng minh bằng toàn bộ những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 04 giờ ngày 16/12/2022, tại phòng 101 nhà nghỉ T-H (thuộc thôn 20, xã Đức Ninh, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang); Đặng Xuân T đã có hành vi tổ chức cho Trần Thị H (14 tuổi 04 tháng 24 ngày) và Trần Thị P (17 tuổi 06 tháng 13 ngày) sử dụng ma tuý.

Bị cáo là người trực tiếp mua ma túy, chuẩn bị công cụ, pha chế ma túy và bố trí địa điểm để Trần Thị H (14 tuổi 04 tháng 24 ngày) và Trần Thị P (17 tuổi 06 tháng 13 ngày) cùng sử dụng ma túy, do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên truy tố bị cáo về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, theo điểm b (đối với 02 người trở lên) và điểm c (đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi) khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương và có thể là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt tù nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đặng Xuân T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là T tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, khi quyết định hình phạt cần áp dụng cho bị cáo.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[2] Về việc xem xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Qúa trình điều tra, truy tố các Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm do Luật định. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, giải quyết vụ án đúng theo trình tự, thủ tục được thể hiện thông qua việc ghi chép, lập biên bản các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, thực hiện việc xét hỏi, tranh tụng đúng quy định tại các Điều 289, 306, 315, 320, 321, 322 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về vật chứng, án phí, quyền kháng cáo và các vấn đề khác.

- Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo Đặng Xuân T 01 điện thoại di động cũ đã qua sử dụng nhãn hiệu Iphone, số IMEI: 355900068353319;

01 loa màu đen cũ đã qua sử dụng; 01 đèn chiếu Laser màu đen cũ đã qua sử dụng và 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 5.000 đồng là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội cần tịch thu, bán hóa giá sung quỹ nhà nước.

Ngoài ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Yên còn thu giữ 0,927g (Không phẩy chín hai bảy gam) ma tuý, loại Ketamine do T và các đối tượng chưa sử dụng hết là vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành và 01 đĩa sứ màu trắng không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu hồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng thu giữ của Trần Thị H và Trần Thị P đã được cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu vào ngày 16/12/2022 nên HĐXX không xem xét.

- Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; Bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

- Về các vấn đề khác:

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Đặng Xuân T, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Yên đã áp dụng các biện pháp điều tra nhưng không có căn cứ xử lý nên HĐXX không xem xét.

Đối với nhà nghỉ “T-H” do Trần Đức T và Đinh Giang H là chủ cơ sở kinh doanh, không cung cấp đĩa sứ, loa và các dụng cụ khác để Đặng Xuân T tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, nên không cấu thành tội phạm. Tuy nhiên T và H hoạt động kinh doanh khi chưa được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự là hành vi vi phạm hành chính. Ngày 12/4/2023 UBND huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 1215/QĐ- XPHC bằng hình thức phạt tiền 15.000.000 đồng nên HĐXX không xem xét.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Đặng Xuân T, Trần Thị H và Trần Thị P đã bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tuyên Quang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính vào ngày 20/12/2022 nên HĐXX không xem xét.

Đối với Đặng Trung K, Phạm Tiến Đ, Nguyễn Văn K1, Nguyễn Duy A, Đặng Chí Qc, Hoàng Hương G, Trần Đỗ Hồng A, Bùi Chiến Th không có hành vi tổ chức sử dụng chất ma túy, không sử dụng ma túy cơ quan điều tra không đề cập xử lý nên HĐXX không xem.

Đối với số ma túy thu giữ của Đặng Xuân T mục đích để T cùng các đối tượng khác sử dụng trong ngày 16/12/2022, nhưng không sử dụng hết, do đó không cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nên HĐXX cũng không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 106, 136, 331 và 333 Bộ Luật tố tụng hình sự; các điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Xuân T phạm tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đặng Xuân T 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (16/12/2022).

3. Về vật chứng:

- Tịch thu của bị cáo Đặng Xuân T 01 (một) điện thoại di động cũ đã qua sử dụng nhãn hiệu Iphone, số IMEI: 355900068353319; 01 (một) loa màu đen cũ đã qua sử dụng; 01 (một) đèn chiếu Laser màu đen cũ đã qua sử dụng để bán hóa giá sung quỹ nhà nước.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 5.000 đồng - Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong bên trong có chứa ma túy, loại Ketamine và 01 (một) đĩa sứ màu trắng.

(T trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/5/2023 giữa Công an huyện Hàm Yên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên).

4. Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 36/2023/HS-ST về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;