Bản án 36/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 36/2021/HS-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 40/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Thào A V (tên gọi khác: Thào A Vạn), sinh năm: 1988 tại xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản N, xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 02/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đoàn thể, đảng phái: Không; con ông Thào A S (đã chết) và con bà Giàng Thị D (sinh năm 1975); có vợ là Giàng Thị M (sinh năm 1989) và 02 con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án: Ngày 24/9/2013, bị Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La xử phạt 08 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản (Chưa được xóa án tích), tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Bá Linh – Luật sư thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 03 giờ 00 phút ngày 25/9/2020, tổ công tác Công an xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La đang làm việc tại khu vực Bản N, xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La thì phát hiện bắt quả tang Thào A V, sinh năm 1988, trú tại: Bản N, xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La đang có hành vi cất giấu trái phép 01 gói nilon màu hồng, bên trong chứa cục bột màu trắng, V khai là Heroine.

Quá trình điều tra Thào A V khai nhận: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 24/9/2020, Thào A V đi bộ một mình từ nhà ra đến đoạn đường ở Bản N, xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, tuổi, địa chỉ và hỏi mua được 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu hồng với giá 50.000VNĐ (Năm mươi nghìn đồng), mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, V mang về nhà, đến khoảng 20 giờ 00 phút cùng ngày, V dùng tay lấy một phần Heroine vừa mua được ra sử dụng bằng cách đốt hít vào cơ thể, số Heroine còn lại, V gói vào vỏ giấy gói ban đầu và cất vào túi áo ngực trái đang mặc trên người. Đến khoảng 02 giờ 50 phút ngày 25/9/2020, Thào A V đi bộ đến đoạn đường ở Bản N, xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La thì phát hiện bắt quả tang.

Ngày 25/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ML phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện ML và phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, tách bì và cân tịnh xác định khối lượng và lấy mẫu giám định vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Thào A V. Kết quả: Cục màu trắng bên trong gói nilon màu hồng có khối lượng là 0,12 gam. Lấy hết 0,12 gam làm mẫu giám định ký hiệu là V, còn lại: vỏ phong bì niêm phong ban đầu và 01 mảnh nilon màu hồng niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.

Ngày 25/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ML ra quyết định trưng cầu giám định số: 118/QĐTCGĐ đối với mẫu ký hiệu V. Tại Kết luận giám định số: 1522 ngày 28/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “mẫu gửi giám định ký hiệu V là ma túy, loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,12 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,12 gam, loại Heroine, hoàn lại mẫu giám định ký hiệu V là 0,07 gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Thào A V không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Thực hiện điều tra đối với người bán trái phép chất ma túy cho Thào A V, ngoài lời khai của bị cáo, cơ quan chức năng không có cơ sở chứng minh, điều tra, xử lý theo vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 09/CT-VKS-ML ngày 05/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố bị cáo Thào A V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, do nghiện ma túy nên bị cáo đã mua ma túy cất giữ, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt như cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ML sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Thào A V và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Thào A V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Thào A V từ 26 (Hai mươi sáu) đến 30 (Ba mươi) tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ: 0,07 gam Heroine còn lại sau giám định, phong bì niêm phong ban đầu và 01 mảnh nilon màu hồng của Thào A V.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Thào A V tranh luận: Đồng ý với nội dung cáo trạng và lời khai mà bị cáo đã trình bày; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, hiểu biết về đời sống xã hội và pháp luật còn hạn chế; bị cáo là người nghiện ma túy, lượng ma túy tàng trữ ít, sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và cho bị cáo hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình, xã hội; đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho bị cáo.

Bị cáo tự bào chữa, tranh luận: Bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt đến mức thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung kết luận điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ của vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: Hồi 02 giờ 30 phút, ngày 25/9/2020, Thào A V đã có hành vi cất giấu Heroine trên người với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại kết luận giám định số 1522 ngày 28/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “mẫu gửi giám định ký hiệu V là ma túy, loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,12 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,12 gam, loại Heroine, hoàn lại mẫu giám định ký hiệu V có khối lượng 0,07 gam”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, mặc dù đã được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, vận động cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, trước và trong khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của việc tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng do nghiện ma túy, bị cáo đã coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, vẫn cố tình phạm tội. Hành vi cất giấu, cất giữ trái phép 0,12 gam Heroine của bị cáo đã gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền về kiểm soát và quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, sự phát triển về thể chất của con người, suy giảm khả năng lao động do nghiện ma túy và kinh tế của gia đình bị cáo, mà còn ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa phương, là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết bị cáo V phạm tội và đề nghị phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị có 01 tiền án: Ngày 24/9/2013, bị Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La xử phạt 08 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản, mặc dù đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa thực hiện xong phần trách nhiệm dân sự nên chưa được xóa án tích. Do đó, căn cứ điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng là “Tái phạm”.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Bị cáo thành khẩn khai báo, khai nhận đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người có ích cho gia đình và xã hội. Do đó, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo là người dân lao động, người dân tộc thiếu số, bị cáo không biết chữ, nhận thức pháp luật hạn chế, sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Do đó, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, mặc dù đã được cải tạo, giáo dục nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội, là đối tượng nghiện ma túy (có phiếu xét nghiệm dương tính (+) với ma túy), không có khả năng tự cải tạo nên cần cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục cho hành vi tương tự.

[6] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, tại biên bản xác minh tài sản và lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định: Gia đình bị cáo không có tài sản giá trị, bản thân bị cáo không có thu nhập ổn định. Do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 25/9/2020 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[8] Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lấy 0,12 gam ma túy làm mẫu giám định, kết quả: Xác định 0,12 gam ma túy thu giữ của Thào A V là Heroine, hoàn lại 0,07 gam Heroine hiện đang lưu kho vật chứng, ký hiệu V là vật cấm tàng trữ, lưu hành, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu và tiêu hủy.

Đối với vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu và 01 mảnh nilon màu hồng là vật dụng bị cáo sử dụng cất giữ trái phép chất ma túy, là vật chứng không có giá trị, do đó, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu và tiêu hủy.

[9] Đối với người đàn ông dân tộc Mông bán ma túy cho bị cáo, ngoài lời khai của bị cáo, cơ quan chức năng đã tiến hành điều tra xác minh, nhưng không thu thập được tài liệu chứng cứ gì, do đó không có cơ sở để xử lý theo vụ án này.

[10] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 , khoản 2 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Thào A V (tên gọi khac: Thào A Vạn) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Thào A V 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 25/9/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy: 0,07 (Không phẩy không bảy) gam Heroine còn lại sau giám định, ký hiệu là V; vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu và 01 mảnh nilon màu hồng của Thào A V.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/01/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ML và Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Thào A V.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 36/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;