Bản án 36/2021/HS-ST ngày 11/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐỒNG NAI

 BẢN ÁN 36/2021/HS-ST NGÀY 11/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 3 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Khoa M (tên gọi khác: M Tàn), sinh năm 1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: Số nhà 64, tổ 45, khu phố 3, phường A, Quận 2 (nay là Thành phố T), TP. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn):9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Khoa B (Đã chết) và bà Hoàng Thị Huyền C; Bị cáo sống chung như vợ chồng với Lê Thị Tố N, sinh năm 1996 và có 01 con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 21/7/2017, bị cáo M bị Tòa án nhân dân huyện N ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng, bị cáo chấp hành xong ngày 22/8/2018.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 30/10/2020. Bị cáo có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1990 (vắng mặt) Địa chỉ: 36/9 khu phố 3, phường A, Quận 2 (nay là thành phố T), TP. Hồ Chí Minh.

+ Chị Lê Thị Tố N, sinh năm 1996 (vắng mặt) Địa chỉ: 494/10 Hòa Hảo, phường 5, Quận 10, TP. Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 28/10/2020, Nguyễn Khoa M cùng Lê Thị Tố N đang ở phòng trọ của M ở ấp P, xã Đ, huyện N, tỉnh Đồng Nai thì M dùng điện thoại hiệu Samsung A50 gọi cho đối tượng tên Tom (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để nhờ mua ma túy. Lúc này, M đưa cho Tom số tiền 500.000đ và nhờ Tom mua giúp 01 gói ma túy, M không nói cho N biết việc nhờ Tom đi mua ma túy. Tom đồng ý và điều khiển xe mô tô (chưa rõ biển số) đi mua ma túy. Sau đó, M lấy một ít ma túy từ gói ma túy mới mua ra rồi cùng N với Tom sử dụng, số ma túy còn lại M bỏ vào hộp kẹo cao su CoolAir cất giấu trên đầu tủ lạnh trong phòng trọ. Đến 21 giờ 30 phút ngày 29/10/2020, M và N đang ở tại phòng trọ thì có Nguyễn Ngọc T đến chơi. Lúc này lực lượng Công an xã Đ kiểm tra hành chính trong phòng trọ của M phát hiện thu giữ 01 hộp kẹo cao su hiệu CoolAir mà M cất giấu trên đầu tủ lạnh bên trong có 01 gói ma túy.

Tang vật thu giữ gồm:

+ 01 gói nylon hàn kín, bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng.

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung A50, 01 điện thoại di động hiệu Oppo.

+ 04 bình nhựa có gắn ống hút và nỏ; 01 quẹt gas, 01 túi nylon bên trong có chứa 12 túi nylon nhỏ.

+ 01 cây tam khúc bằng kim loại; 04 con dao tự chế bằng kim loại; 01 cây búa; 01 bình xịt hơi cay, 01 đèn pin, 01 tua vít màu xanh.

+ 01 giấy đăng ký xe, 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ bảo hiểm mang tên Nguyễn Hoàng C, 01 giấy đăng ký xe mang tên Huỳnh Kim Tuyết, 01 giấy đăng ký xe mang tên Phan Thành L (đã trả lại cho các chủ sở hữu).

Tại bản kết luận giám định số 2539/KLGĐ-PC09 ngày 04/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,2700 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 32/CT.VKS-NT ngày 03/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Nguyễn Khoa M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Khoa M từ 18 đến 24 tháng tù.

+ Về biện pháp tư pháp: Đề nghị tịch thu tiêu hủy các vật chứng trong vụ án gồm: mẫu vật ma túy còn lại sau giám định, 04 bình nhựa có gắn ống hút và nỏ; 01 quẹt gas, 01 túi nylon bên trong có chứa 12 túi nylon nhỏ, 01 cây tam khúc bằng kim loại; 04 con dao tự chế bằng kim loại; 01 cây búa; 01 bình xịt hơi cay, 01 đèn pin, 01 tua vít màu xanh.

Tuyên tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung A 50 của bị cáo M sử dụng vào việc phạm tội.

Trả lại 01 điện thoại di động hiệu Oppo cho bị cáo Nguyễn Khoa M.

Bị cáo Nguyễn Khoa M không có ý kiến gì đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Khoa M tại phiên tòa: Bị cáo kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Về việc vắng mặt của người làm chứng: Người làm chứng là anh Nguyễn Ngọc T và chị Lê Thị Tố N đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, anh T và chị N đã có lời khai tại hồ sơ và việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt anh T và chị N.

[2] Về hành vi của bị cáo: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Khoa M đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định:

Vào ngày 28/10/2020 tại ấp P, xã Đ, huyện N, Nguyễn Khoa M đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,2700 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Khoa M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng chất ma túy; làm lan tràn tệ nạn xã hội nghiện ma túy và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma túy, đã được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng chưa cai nghiện được ma túy. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ. Tuy nhiên, bị cáo khai việc làm và thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Khoa M không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên Tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xét thấy cần tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong mẫu vật ma túy còn lại sau giám định; 04 bình nhựa có gắn ống hút và nỏ;

01 quẹt gas, 01 túi nylon bên trong có chứa 12 túi nylon nhỏ; 01 cây tam khúc bằng kim loại; 04 con dao tự chế bằng kim loại; 01 cây búa; 01 bình xịt hơi cay, 01 đèn pin, 01 tua vít màu xanh.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung A50 của bị cáo M sử dụng vào việc phạm tội. Tuyên trả lại 01 điện thoại di động hiệu Oppo cho bị cáo Nguyễn Khoa M do không liên quan đến hành vi phạm tội.

[8] Đối với Tom người bán ma túy cho bị cáo M do chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

[9] Đối với Lê Thị Tố N và Nguyễn Ngọc T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên đã bị xử phạt hành chính là đúng quy định của pháp luật.

[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Khoa M phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Khoa M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Khoa M 01 (một) năm 06 (sáu) tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/10/2020.

3. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 2539/KLGĐ-PC09 ngày 04/11/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai (mẫu vật ma túy còn lại sau giám định); 04 bình nhựa có gắn ống hút và nỏ; 01 quẹt gas, 01 túi nylon bên trong có chứa 12 túi nylon nhỏ; 01 cây tam khúc bằng kim loại; 04 con dao tự chế bằng kim loại; 01 cây búa; 01 bình xịt hơi cay, 01 đèn pin, 01 tua vít màu xanh.

Trả lại 01 điện thoại di động hiệu Oppo cho bị cáo Nguyễn Khoa M.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung A50 của bị cáo Nguyễn Khoa M.

(Vật chứng nêu trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện N đang lưu giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/02/2021).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Khoa M phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 36/2021/HS-ST ngày 11/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;