TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 36/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 101/2021/TLST- HNGĐ, ngày 12 tháng 3 năm 2021 về việc “Tranh chấp Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2021/QĐXXST-HN, ngày 09 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Mao Thị Bé L, sinh năm 1989.

Địa chỉ: ấp 2, xã H, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Nguyễn Việt C, sinh năm 1989.

Địa chỉ: ấp 2, xã H, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết, nguyên đơn Mao Thị Bé L (sau đây gọi chị L) trình bày: giữa chị và bị đơn Nguyễn Việt C (sau đây gọi anh C) qua tìm hiểu nhau mà tự nguyện quyết định đi đến hôn nhân vào năm 2012, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chồng chị hay chơi bời, không quan tâm lo lắng được gì cho đời sống gia đình, vợ chồng bất đồng quan điểm sống trong nhiều việc nên thường xuyên cãi vã nhau, tình cảm vợ chồng phai nhạt; đã nhiều lần hoà giải hàn gắn tình cảm nhưng không thành nên đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Do cuộc sống chung không hạnh phúc, chị L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

-Về hôn nhân: xin ly hôn với anh C.

-Về con chung: có một người con chung tên Nguyễn Mao Như N (nữ), sinh ngày 09 tháng 7 năm 2013; Từ khi ly thân đến nay con chung sống với chị, nay ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, chưa yêu cầu cấp dưỡng.

Về nợ và tài sản chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai gửi đến Tòa án, anh Nguyễn Việt C trình bày : anh và chị đăng ký kết hôn năm 2013, có một con chung. Thời gian ly thân là năm 2019. Trong thời gian chung sống bản thân anh luôn chăm lo làm ăn, thương yêu vợ con, về mâu thuẫn thì không có gì trầm trọng, do công việc không thuận lợi, thu nhập ít nên vợ anh xin ly hôn, do còn thương vợ, con nên anh chưa đồng ý ly hôn, nếu vợ anh cương quyết thì anh cũng đồng ý.

Tại phiên tòa anh Nguyễn Việt C xin được đoàn tụ. Giả sử phải ly hôn thì anh đồng ý để con cho vợ nuôi, anh chưa cấp dưỡng. Nếu vợ anh không nuôi được thì giao con cho anh nuôi, anh không yêu cầu cấp dưỡng. Về nợ và tài sản chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 29 tháng 3 năm 2021, cháu Ngọc trình bày (có sự chứng kiến của chị L): từ trước đến giờ cháu sống với mẹ, khi cha mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được sống với mẹ.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: về thủ tục tố tụng: Tòa án, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn: cho ly hôn; giao con chung cho nguyên đơn nuôi, bị đơn chưa cấp dưỡng; về nợ và tài sản chung, không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp ly hôn được qui định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: chị Mao Thị Bé L có yêu cầu đề nghị xét xử vắng mặt; căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử mở phiên tòa xét xử vắng mặt đối với chị L.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân: chị L và anh C qua tìm hiểu nhau, tự nguyện tiến tới đời sống hôn nhân vào năm 2012, có đăng ký kết hôn ngày 21 tháng 02 năm 2013 tại Ủy ban nhân dân xã Phụng Hiệp, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận.

[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị L: chị và anh C trong thời gian chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng những quan điểm trong cuộc sống nhưng không tìm được giải pháp khắc phục để hoà giải hàn gắn tình cảm mà chọn cách sống ly thân; xét thấy thời gian ly thân thì tự ai người đó sống, không ai quan tâm, lo lắng cho ai. Tại phiên tòa, anh C chưa đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được giải pháp để đoàn tụ và hiện tại mỗi người sống mỗi nơi nên cơ hội đoàn tụ là khó. Trong khi đó, quá trình gải quyết chị L xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh C và cương quyết xin ly hôn; từ đó thấy rằng hôn nhân giữa hai người đã thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L.

[5] Về con chung: có một người con chung, xét cháu N được sống với chị L từ khi ly thân đến nay, chị L cũng có yêu cầu được nuôi cháu N, yêu cầu này phù hợp với nguyện vọng của cháu N, từ đó đủ căn cứ giáo cháu N cho chị L được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc khi chị L, anh C có yêu cầu khác.

[6] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: chị L chưa yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt ra xem xét. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho anh anh C mà không ai có quyền cản trở.

[7] Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét.

[8] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: nguyên đơn phải nộp theo quy định pháp luật.

Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa có căn cứ chấp nhận. Các đương sự được quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 228 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Mao Thị Bé L và anh Nguyễn Việt C.

2. Về nuôi con chung: giao cháu Nguyễn Mao Như N (nữ), sinh ngày 09 tháng 7 năm 2013 cho chị Mao Thị Bé L được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc khi anh C, chị L có yêu cầu khác.

Anh Nguyễn Việt C chưa phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho anh anh Nguyễn Việt C mà không ai có quyền cản trở.

3. Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu, không xem xét

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: chị Mao Thị Bé L phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ từ 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0008681, ngày 12 tháng 3 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang thành án phí, không phải nộp thêm.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Số hiệu:36/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;