Bản án 36/2020/HS-ST ngày 20/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 36/2020/HS-ST NGÀY 20/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Anh T; tên gọi khác: không; sinh ngày 16 tháng 3 năm 1997 tại huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Thôn C, xã Đ, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Xuân B và bà Hoàng Thị P; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình từ ngày 10/8/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Lê Xuân N, sinh ngày 10/4/1993 Địa chỉ: Thôn C, xã Đ, huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình (vắng mặt) - Người chứng kiến:

1. Ông Bùi Minh C, sinh năm 1961 (vắng mặt)

2. Bà Trần Thị S, sinh năm 1959 (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Anh T là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 11 giờ 10 phút, ngày 10/8/2020, T mượn xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại EXCITER, màu sơn xanh – bạc, biển kiểm soát: 73D1 – 128.74 của anh trai là Lê Xuân N để đi mua ma túy về sử dụng. T điều khiển xe mô tô đi từ nhà đến khu vực chợ Đồng L thuộc thị trấn Đồng L, huyện Tuyên Hóa, gặp một người đàn ông, không rõ tên tuổi, địa chỉ hỏi mua ma túy. Người đàn ông đó đồng ý bán cho T 06 viên nén hình tròn, màu hồng, dạng thuốc tân dược, được gói trong một giấy bạc với giá 400.000 đồng. T cất giấu số ma túy trên vào trong túi quần phía trước, bên phải rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà, khi đi đến địa phận thôn Tân Sơn, xã Sơn Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình thì bị Tổ công tác Công an huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình phát hiện bắt quả tang. T khai nhận 06 viên nén trên là ma túy loại hồng phiến, T mua về cất giấu để sử dụng. Tổ công tác Công an huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại bản kết luận giám định số: 1068/GĐ-PC09 ngày 13/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 06 viên nén hình tròn, màu hồng, dạng thuốc tân dược là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,542 gam.

Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, Số thứ tự: 323, Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ – CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tuyên Hoá đã tạm giữ:

- 06 viên nén hình tròn, màu hồng, dạng thuốc tân dược là ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng là 0,542 gam, sau khi lấy mẫu vật phục vụ công tác giám định, số ma túy còn lại là 0,422 gam; cùng vỏ bao gói được niêm phong dán kín trong phong bì ghi số “1068/GĐ-PC09” “Mẫu ký hiệu A” có các chữ ký của những người tham gia niêm phong, dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình và ngoài cùng dán băng dính trong suốt.

- 01 (một) xe mô tô, nhãn hiệu: YAMAHA, loại: EXCITER, màu sơn: Xanh - Bạc, số máy: G3D4E209816, số khung: 0610GY196904, biển kiểm soát: 73D1 - 12874, xe đã qua sử dụng.

- Ngày 23/9/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hóa đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe mô tô nói trên cho anh Lê Xuân Nam là chủ sở hữu hợp pháp.

Hành vi phạm tội của Lê Anh T đã được cơ quan điều tra làm rõ. Tại bản Cáo trạng số: 37/CT-VKSTH-HS ngày 14 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình đã truy tố Lê Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm truy tố và luận tội, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ Luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Lê Anh T từ 12 đến 15 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 10/8/2020.

Về xử lý vật chứng:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu và tiêu huỷ vật chứng là 0,422 gam ma tuý loại Methamphetamine cùng vỏ bao gói được niêm phong dán kín trong phong bì ghi số “1068/GĐ-PC09” “Mẫu ký hiệu A” có các chữ ký của những người tham gia niêm phong, dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình và ngoài cùng dán băng dính trong suốt.

- Đối với chiếc xe mô tô bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma tuý là xe của anh Lê Xuân N. Ngày 23/9/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tuyên Hoá ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu: YAMAHA, loại: EXCITER, màu sơn: Xanh - Bạc, số máy: G3D4E209816, số khung: 0610GY196904, biển kiểm soát: 73D1 – 12874 cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Lê Xuân Nam nên không xem xét.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Lê Anh T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Về nguồn gốc ma tuý Lê Anh T khai đã mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ. Quá trình điều tra không có cơ sở để xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với anh Lê Xuân N là người đã cho Lê Anh T khai mượn xe mô tô nhãn hiệu: YAMAHA, loại: EXCITER, biển kiểm soát: 73D1 – 12874 sử dụng làm phương tiện thực hiện việc phạm tội. Tuy nhiên, anh Nam không biết mục đích sử dụng xe của T đi mua ma tuý nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh Lê Xuân N.

Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết mới. Bị cáo nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình và của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật nên không xem xét gì thêm.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo là người có đủ năng lực hành vi dân sự và nhận thức rõ tác hại của ma tuý, hiểu rõ việc tàng trữ ma tuý bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì bản thân nghiện ma tuý bị cáo đã mua ma tuý về sử dụng. Hành vi của bị cáo là tàng trữ trái phép chất ma tuý. Số ma tuý mà Lê Anh T tàng trữ có khối lượng 0,542 gam (không phẩy năm trăm bốn mươi hai gam) với số lượng là 06 viên hồng phiến.

Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội đó phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, những người chứng kiến và các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, tài liệu về thời gian, địa điểm, khối lượng chất ma tuý mà bị cáo đã tàng trữ, ý kiến của Kiểm sát viên. Do đó có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Lê Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). [3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Anh T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về mức án mà Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá đề nghị xử phạt bị cáo Lê Anh T từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa bàn, gây tệ nạn cho xã hội và tạo sự hoang mang trong quần chúng nhân dân. Trong tình hình tội phạm về ma tuý và hậu quả của việc sử dụng ma tuý như hiện nay, đã gây ra nhiều hậu quả cho xã hội, làm mất trật tự, trị an trong đời sống của người dân. Hành vi này là nguy hiểm cho xã hội cần xử phạt nghiêm minh để giáo dục và răn đe chung. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo; bản thân thật sự ăn năn, hối cải, nên cần xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cũng đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người tiến bộ và tạo điều kiện cho bị cáo sớm hoàn lương, hoà nhập cộng đồng xã hội, phù hợp với chính sách nhân đạo của Nhà nước. Vì vậy cần chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá tại phiên tòa và áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo một mức án phù hợp. Đồng thời cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo bị cáo trở thành một công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Về nguồn gốc ma tuý Lê Anh T khai đã mua của người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ. Quá trình điều tra không có cơ sở để xác minh danh tính của người này, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với anh Lê Xuân N là người đã cho Lê Anh T khai mượn mô tô nhãn hiệu: YAMAHA, loại: EXCITER, biển kiểm soát: 73D1 – 12874 sử dụng làm phương tiện thực hiện việc phạm tội. Tuy nhiên, anh Nam không biết mục đích sử dụng xe của T đi mua ma tuý nên cơ quan điều tra Công an huyện Tuyên Hoá và Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh Lê Xuân Nam. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng vụ án:

- 01 (một) phong bì ghi số “1068/GĐ-PC09”, đã được niêm phong dán kín, có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình và chữ ký trên mép dán, bên trong là chất ma tuý loại Methamphetamine khối lượng 0,422 gam cùng vỏ bao gói. Mẫu ký hiệu A là vật cấm tàng trữ, lưu hành cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu huỷ.

- Đối với chiếc xe mô tô bị cáo Lê Anh T dùng làm phương tiện đi mua ma tuý về để tàng trữ, ngày 23/9/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tuyên Hoá ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu: YAMAHA, loại: EXCITER, biển kiểm soát: 73D1 – 12874 cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Lê Xuân Nam. Xét thấy việc xử lý vật chứng của cơ quan điều tra đảm bảo theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét thêm.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Lê Anh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Anh T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

 - Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Anh T 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 10/8/2020). Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.

2. Vật chứng vụ án:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì ghi số “1068/GĐ-PC09”, đã được niêm phong dán kín, có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình và chữ ký trên mép dán, bên trong là chất ma tuý loại Methamphetamine khối lượng 0,422 gam cùng vỏ bao gói. Mẫu ký hiệu A.

Số vật chứng này hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/10/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Lê Anh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Tuyên bố bị cáo Lê Anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 20/11/2010). Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Lê Xuân N, thời hạn kháng cáo kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết bản án ở nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 36/2020/HS-ST ngày 20/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;