Bản án 36/2020/HS-ST ngày 12/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T G, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 36/2020/HS-ST NGÀY 12/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Dg; tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 19 tháng 9 năm 1992, tại huyện TG, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Khối 20..., thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 11; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1956 và con bà Lê Thị Bc, sinh năm 1958. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị Tòa án xét xử, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/3/2020 đến ngày 12/3/2020, tạm giam từ ngày 12/3/2020 cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 09 giờ 05 phút, ngày 06 tháng 3 năm 2020, tại khối 20..., thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Tổ công tác Công an thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên phát hiện và bắt quả tang bị cáo Nguyễn Văn Dg đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm 02 gói nilon màu hồng (trong đó 01 gói bên trong chứa 02 viên nén màu hồng, 01 gói bên trong chứa 03 viên nén màu hồng), nghi là methamphetamine do bị cáo tự giác giao nộp. Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu itel màu vàng đồng, 01 giấy chứng minh nhân dân số 040473217 mang tên Nguyễn Văn Dg.

Ngày 06/3/2020, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện TG tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu trưng cầu giám định: 05 viên nén màu hồng (thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Văn Dg) có khối lượng 0,51 gam, trích khối lượng 0,11 gam làm mẫu trưng cầu giám định.

Kết luận giám định số: 257/GĐ-PC09 ngày 20/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn Dg gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine.

Khối lượng vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn Dg gồm 05 viên nén màu hồng khối lượng 0,51 gam; (không hoàn lại đối tượng giám định).

Cáo trạng số: 37/CT-VKS-TG ngày 28 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Dg về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và thẩm vấn tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Dg khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 06/3/2020, bị cáo đi nhờ xe máy của một người đàn ông không quen biết từ cổng Trung tâm y tế huyện TG đến bản Ta Cơn, xã Chiềng Sinh, huyện TG, tỉnh Điện Biên tìm mua ma túy sử dụng. Đến đầu cầu Ta Cơn, bị cáo xuống xe và gặp một người phụ nữ dân tộc Thái khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ. Qua trao đổi bị cáo mua được của người phụ nữ đó 05 viên ma túy tổng hợp với giá 257.000đ, mua được ma túy bị cáo đi nhờ xe máy của một người đàn ông khác không biết tên, tuổi, địa chỉ về nhà, còn người phụ nữ đó đi đâu bị cáo không biết.

Về đến nhà bị cáo chia số ma túy thành 02 gói, được gói bằng nilon màu hồng, trong đó 01 gói chứa 02 viên, 01 gói chứa 03 viên. Sau đó, khoảng 09 giờ ngày 06/3/2020 bị cáo từ trong nhà ra đến đường QL 279, khu vực 20..., thị trấn TG, huyện TG thấy tổ công tác Công an thị trấn TG đang làm nhiệm vụ đến và yêu cầu kiểm tra. Do sợ bị phát hiện, bị cáo đã vứt 02 gói ma túy tổng hợp đang cầm trên tay xuống đường ngay gần chỗ bị cáo đang đứng, tổ công tác yêu cầu bị cáo nhặt 02 gói ma túy vừa vứt lên. Bị cáo đã tự giác nhặt lên giao nộp cho tổ công tác công an thị trấn TG.

Thực hành quyền công tố tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TG giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn Dg và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Dg phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Dg từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định.

Bị cáo nhất trí với bản Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến bào chữa.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ kết luận: Hồi 09 giờ 05 phút ngày 06/3/2020, tại ven đường QL 279, Khối 20..., thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Nguyễn Văn Dg đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,51 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Hành vi trên của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Khoản 1 Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Bản cáo trạng số: 37/CT-VKSTG ngày 28/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự và đề nghị mức hình phạt là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp.

Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy bị cáo nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[2] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, tiền chất ma túy. Đảng và nhà nước đã và đang có nhiều chính sách, biện pháp phòng chống, ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn, tội phạm ma túy nhưng bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy; vì coi thường pháp luật dẫn đến nghiện ma túy và thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử thấy để giúp bị cáo cai nghiện, đảm bảo tính nghiêm minh, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Nguyễn Văn Dg sinh ra và lớn lên tại huyện TG, tỉnh Điện Biên được bố mẹ cho đi học hết lớp 11 thì bỏ học ở nhà lao động sản xuất. Ngày 06/3/2020 bị tổ công tác Công an thị trấn TG bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bản thân bị cáo không có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng cho bị cáo.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Các vấn đề khác:

Đối với người phụ nữ mà bị cáo khai đã bán Methamphetamine cho bị cáo vào ngày 06/3/2020 do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG không có căn cứ để điều tra, xác minh làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Vật chứng vụ án:

Đối với 0,4 gam methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định, xét đây là loại hàng cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại nhãn hiệu itel màu vàng đồng đã qua sử dụng, 01 chứng minh nhân dân số 040473217 mang tên Nguyễn Văn Dg, xét không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.

[6] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[7] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố, bị cáo Nguyễn Văn Dg phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Dg 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/3/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy, một gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín, bên trong chứa 0,4 gam methamphetamine, 02 mảnh nilon màu hồng và 01 vỏ gói dùng để niêm phong vật chứng. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại nhãn hiệu itel màu vàng đồng đã qua sử dụng, 01 chứng minh nhân dân số 040473217 mang tên Nguyễn Văn Dg.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 29/5/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện TG, tỉnh Điện Biên).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 12/6/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 36/2020/HS-ST ngày 12/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;