Bản án 36/2020/HS-ST ngày 04/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 36/2020/HS-ST NGÀY 04/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 5 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 03 năm 2020. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2020/QĐ/XXST- HS ngày 21/4/2020 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lại Viết Q; Tên gọi khác: Quang y tế; Giới tính: Nam; Sinh năm:

1981; Tại: Lâm Đồng; NĐKNKTT: 105/37 Lý Thường Kiệt, phường 1, Tp.B, tỉnh Lâm Đồng; Nơi cư trú: Số 41 Trần Nguyên Hãn, phường 2, Tp.B, tỉnh Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: không; Con ông: Lại Việt H (đã chết); Con bà: Trần Thị T, sinh năm 1941. Nơi cư trú: 105/37 Lý Thường Kiệt, phường 1, Tp.B, tỉnh Lâm Đồng; Gia đình: có 06 anh em, lớn nhất sinh năm 1970, nhỏ nhất sinh năm 1987. Bị cáo là con thứ 05 trong gia đình; Vợ: Nguyễn Thụy Thùy H, sinh năm 1988 (đã ly hôn). Con: Lại Thị Kim A, sinh năm 2006, hiện đang ở cùng mẹ;

- Tiền sự: không;

- Tiền án: 01 tiền án;

+ Bản án số 68/2014/HSST ngày 24/07/2014 cuả TAND Tp.B xử phạt 03 năm tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm1999. Chấp hành án xong ngày 24/01/2017. Tuy nhiên đến nay bị cáo chưa nộp án phí hình sự, dân sự của bản án này.

- Nhân thân:

+ Bản án số: 12/2002/HSST ngày 05/04/2002 của TAND TX.B Lộc xử phạt 30 tháng tù giam về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 BLHS 1999.

+ Bản án số: 05/2010/HSST ngày 20/01/2010 của TAND TX.B xử phạt 24 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 138 BLHS 1999.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 23/12/2019 cho đến nay.

* Bị hại:

+ Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1961; Trú tại: số 24 đường Võ Thị sáu, thị trấn M, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Đại diện ủy quyền của chị L là chị Đỗ Thu H, sinh năm 1979, địa chỉ số 105/35 Lý Thường Kiệt, phường 1, Tp.B (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lại Viết Q là đối tượng đã có tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Ngày 04/12/2019, Lại Viết Q phát hiện tại khu đất trồng bắp phía sau nhà số 85 Lý Thường Kiệt, Phường 1, Tp.B do bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1961, HKTT: số 24 Võ Thị Sáu, thị trấn M, huyện Đ làm chủ nhưng cho chị Đỗ Thu H, sinh năm 1979, địa chỉ số 105/35 Lý Thường Kiệt, Phường 1, Tp.B thuê có cọc sắt và lưới B40. Đến khoảng 17 giờ ngày 08/12/2019, Q nảy sinh ý định trộm cắp cọc sắt và lưới B40 trên lấy tiền tiêu xài cá nhân. Q điều khiển xe mô tô biển số 52Z8-8747 đi đến và để xe trên vỉa hè nhà bà Lụa. Q vào sau nhà gỡ được 04 cọc sắt tổng trọng lượng 17kg trong đống lưới vác ra ngoài và điều khiển xe mô tô chở đến tiệm phế liệu ở địa chỉ số 35B Lý Thường Kiệt, phường 2, Tp.B do chị Võ Thị T làm chủ bán được số tiền 76.000 đồng. Đến khoảng 10 giờ ngày 09/12/2019, Q tiếp tục đem theo 01 chiếc kìm điện và điều khiển xe mô tô trên đến nhà bà L. Q dùng kìm điện mang theo gỡ được 02 cuộn lưới B40 có tổng trọng lượng 50 kg, sau đó vác ra ngoài vỉa hè vẫy xe ba gác chở 02 cuộn lưới đi thì bị chị H phát hiện không cho chở nên Q sử dụng xe mô tô 52Z8-8747 lần lượt chở 02 cuộn lưới đến bán cho chị T lấy số tiền 200.000 đồng. Số tiền bán cọc sắt và lưới B40, Q sử dụng tiêu xài cá nhân hết. Sau khi Q chở số lưới B40 đi thì chị H trình báo sự việc đến công an Phường 1, Tp.B.

Theo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 174 ngày 14/12/2019 của hội đồng định giá UBND Tp.B xác định 04 cây sắt trọng lượng 17 kg có 2 giá trị 85.000 đồng và 02 cuộn lưới B40 trọng lượng 50kg có giá trị 250.000 đồng. Tổng giá trị Q chiếm đoạt là 335.000 đồng.

- Về vật chứng:

Chiếc xe mô tô biển số 52Z8-8747 đứng tên chủ sở hữu Nguyễn Thị Minh D do chị Lại Thị Quỳnh T (em gái của Q) mua tại Tp.Hồ Chí Minh vào năm 2015, chưa làm thủ tục sang tên. Đến năm 2017, chị T cho lại bà Trần Thị T (mẹ ruột của Q) và bà T giao cho Q để sử dụng làm phương tiện đi lại. Cơ quan CSĐT- Công an Tp.B đã có công văn đề nghị phối hợp xác minh nguồn gốc chiếc xe mô tô nêu trên để xử lý theo quy định.

Cơ quan CSĐT-Công an Tp.B hiện đang tạm giữ chiếc xe mô tô biển số 52Z8-8747 và chiếc kìm Lại Viết Q sử dụng thực hiện hành vi phạm tội. Chị Võ Thị T là người mua tài sản do Q trộm cắp đã được gia đình bị can bồi thường số tiền 200.000 đồng và không có yêu cầu gì khác về dân sự.

- Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, cơ quan CSĐT-Công an Tp.B chưa thu hồi được 04 chiếc cọc sắt. Đối với 02 cuộn lưới B40, cơ quan CSĐT-Công an Tp.B đã thu hồi và trả lại cho người bị hại. Hiện bị hại không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự.

Tại cáo trạng số 35/CT-VKSBL ngày 06/03/2020 truy tố bị cáo Lại Viết Q về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố, đã phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện, đưa ra các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lại Viết Q từ 18 đến 24 tháng tù.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự giao chiếc xe mô tô biển số 52Z8-8747 và 01 giấy đăng ký xe mô tô đứng tên Nguyễn Thị Minh D cho cơ quan điều tra Công an thành phố B để tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc kìm do Lại Viết Q sử dụng thực hiện hành vi phạm tội. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1].Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Tp. B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Tp. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện điều hợp pháp và đúng pháp luật.

[2].Về nội dung vụ án: Lại Viết Q là đối tượng đã có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Lại Viết Q đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản gồm 04 cọc sắt và 02 cuộn lưới B40 vào các ngày 08/12/2019 và 09/12/2019 tại nhà số 85 Lý Thường Kiệt, phường 1, Tp.B của bà Nguyễn Thị L, có trị giá tài sản là 335.000 đồng. Hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Căn cứ lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án.

Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Lại Viết Q trộm cắp tài sản có giá trị là 335.000 đồng, bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1, điều 173 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất hành vi phạm tội do bị cáo Lại Viết Q thực hiện tuy giá trị tài sản mà bị cáo trộm cắp không lớn, nhưng bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích, trước lần phạm tội này bị cáo đã bị Tòa án thành phố B xét xử 02 lần vào năm 2010, 2014 về tội trộm cắp tài sản và 01 lần bị xử về tội cố ý gây thương tích vào năm 2002. Hành vị trộm cắp tài sản của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có nhận thức, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo có đủ sức khỏe để lao động kiếm sống, nhưng lại lười lao động, muốn kiếm tiền bằng cách chiếm đoạt tài sản của người khác để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Bị cáo biết rất rõ việc trộm cắp tài sản là hành vi vi phạm và bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Việc cố ý này thể hiện sự coi thường kỷ cương, pháp luật, gây lên sự bất bình trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy, cần thiết phải áp dụng cho bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, để răn đe, giáo dục và để phòng ngừa tội phạm chung.

Trong vụ án này cần phải xem xét tính chất của hành vi phạm tội, các tình tiết, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo cụ thể như sau:

-Về tình tiết tăng nặng: Không - Về tình tiết giảm nhẹ:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, đã bồi thường khắc phục một phần hậu quả, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản mà bị cáo trộm cắp giá trị không lớn, nên áp dụng điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Hội đồng xét xử đánh giá tính chất mức độ của hành vi phạm tội, cân nhắc các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiêm hình sự. Xét thấy: Cần thiết phải xử cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình, cho xã hội và để phòng ngừa chung.

-Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo Q không có nghề nghiệp, việc làm ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3]. Về vật chứng:

Chiếc xe mô tô biển số 52Z8-8747 đứng tên chủ sở hữu Nguyễn Thị Minh D do chị Lại Thị Quỳnh T (em gái của Q) mua tại Tp.Hồ Chí Minh vào năm 2015, chưa làm thủ tục sang tên. Nay cơ quan CSĐT- Công an Tp.B đã có công văn đề nghị phối hợp xác minh nguồn gốc chiếc xe mô tô nêu trên để xử lý theo quy định.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự giao chiếc xe mô tô biển số 52Z8-8747 và 01 giấy đăng ký xe mô tô đứng tên Nguyễn Thị Minh D cho cơ quan điều tra Công an thành phố B để tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc kìm do Lại Viết Q sử dụng thực hiện hành vi phạm tội.

[4]. Về trách nhiệm dân sự:

Chị Đỗ Thu H đại diện ủy quyền của bị hại đã nhận lại một phần tài sản và không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự nên không xem xét.

Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Chị Võ Thị T là người mua tài sản nhưng không biết tài sản này do Q trộm cắp nên cơ quan điều tra xác định không phạm tội, chị T mua tài sản bị công an thu hồi đã được Q bồi thường 200.000đ. Nay chị T không yêu cầu bồi thường dân sự nữa nên không xem xét.

luật.

[5]. Về án phí: Bị cáo Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Lại Viết Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Lại Viết Q 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01chiếc kìm bằng kim loại. Giao chiếc xe mô tô biển số 52Z8-8747 và 01 giấy đăng ký xe mô tô đứng tên Nguyễn Thị Minh D cho cơ quan điều tra Công an thành phố B để tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật (Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 11/03/2020 giữa Công an thành phố B và Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).

3/ Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí tòa án. Buộc bị cáo Lại Viết Q phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với những người vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản sao bản án theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 36/2020/HS-ST ngày 04/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:36/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;