Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 29/05/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 36/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 29 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 55/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 4 năm 2020, Quyết định hoãnộphiên tòa số 34/2020/QĐST – HNGĐ ngày 08/5/2020, giữa các đương sự.

1. Nguyên đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1978; thường trú: 25A/2 ấp Đ, xã T, huyện L, tỉnh Đ; tạm trú: Số nhà 14/12 khu phố A, phường Đ, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị Lý Ngọc V, sinh năm 1980; thường trú: 25A/2 ấp Đ, xã T, huyện L, tỉnh Đ; tạm trú: Số nhà 521/1A khu phố A, phường T, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/10/2019 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Trần Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh T và chị Lý Ngọc V sau thời gian tìm hiểu thì tự nguyện chung sống từ năm 2001, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Đ vào ngày 27/8/2001 (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 45). Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhânộphát sinh từ việc vợ chồng tính tình không hợp, không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống. Từ năm 2012 đến nay vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm chăm sóc nhau. Nay anh T xác định không còn tình cảm với chị Vân nên yêu cầu ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Trần Đăng K, sinh ngày 16/11/2004 và Trần Đăng K1, sinh ngày 23/12/2011. Hiện nay các cháu đang do anh T chăm sóc, nuôi dưỡng nên khi ly hôn anh T yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng các con, không yêu cầu chị Lý Ngọc V thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Anh Trần Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn chị Lý Ngọc V: Quá trình tố tụng, chị V đã được Tòa án thông báo thụ lý, triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 09/4/2020; tham gia phiên tòa vào các ngày 08/5/2020 và ngày 29/5/2020, tuy nhiên chị V vắng mặt không có lý do, không cung cấp chứng cứ và không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của anh T.

- Tại biên bản xác minh của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An tại Hội liên hiệp phụ nữ phường T, thành phố Dĩ An thể hiện: Hội Liên hiệp phụ nữ phường T không nhận được đơn đề nghị hòa giải quan hệ hôn nhân giữa anh Trần Văn T và chị Lý Ngọc V. Đồng thời, Hội không tiếp nhậnộphản ánh từ cơ sở về mâu thuẫn giữa hai anh chị, do đó, không biết rõ giữa hai anh chị có mâu thuẫn như thế nào.

- Kết quả xác minh tại Công anộphường T thể hiện: Chị Trần Ngọc V, sinh năm 1980 có đăng ký tạm trú và hiện đang sinh sống tại địa chỉ: 521/1A khu phố A, phường T, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Đồng thời, nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định.

Về việc giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân, anh Trần Văn T và chị Lý Ngọc V có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình tố tụng, chị V không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, không cung cấp lời khai và chứng cứ về quan hệ hôn nhân nên có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng anh T và chị V là trầm trọng, anh T có yêu cầu ly hôn là có căn cứ. Về con chung, anh T có yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị V thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay con chung đang chung sống với anh T, tại bản tự khai các cháu cũng có nguyện vọng được ở chung với ba là anh Trần Văn T. Chị V vắng mặt, không trình bày ý kiến về vấn đề nuôi con và việc cấp dưỡng nên yêu cầu của anh T về vấn đề nuôi dưỡng con chung là có căn cứ. Anh T không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của đương sự, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận. Về tài sản chung và nợ chung nguyên đơn không tranh chấp, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Tòa án nhận định:

[1] Anh Trần Văn T khởi kiện chị Lý Ngọc V yêu cầu được ly hôn. Căn cứ biên bản xác minh tại Công anộphường T thể hiện: Chị Trần Ngọc V, sinh năm 1980 có đăng ký tạm trú và hiện đang sinh sống tại địa chỉ: 521/1A khu phố A, phường T, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương nên vụ án thu c thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tòa án đã triệu tập hợp lệ chị Lý Ngọc V để tham gia phiên tòa vào các ngày 08/5/2020 và ngày 29/5/2020 nhưng chị V vắng mặt không rõ lý do. Ngày 17/4/2020 nguyên đơn anh Trần Văn T nộp đơn từ chối hòa giải và đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án xét xử vắng mặt anh T, chị V.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Văn T và chị Lý Ngọc V là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Đ vào ngày 27/8/2001 (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 45) nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Anh T xác định trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống được với nhau và yêu cầu được ly hôn. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập chị Lý Ngọc V đến làm việc nhưng chị V đều vắng mặt không rõ lý do, không đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời, chị V cũng không có văn bản nào thể hiện thiện chí đưa ra phương pháp hàn gắn mối quan hệ giữa chị và anh T nên có cơ sở xác định cu c sống hôn nhân của anh T và chị V phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, anh Trần Văn T yêu cầu được ly hôn với chị Lý Ngọc V là phù hợp với quy định của Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có căn cứ chấp nhận.

[4] Về con chung: Anh Trần Văn T và chị Lý Ngọc V có 02 con chung là cháu Trần Đăng K, sinh ngày 16/11/2004 và Trần Đăng K1, sinh ngày 23/12/2011. Hiện nay hai cháu đang sống chung với anh T nên khi ly hôn anh T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Chị Lý Ngọc V vắng mặt, không có ý kiến gì đối với yêu cầu về nuôi con của anh T đồng thời tại bản tự khai ngày 24/02/2020, cháu K và cháu K1 cũng có nguyện vọng được ở chung với ba là anh Trần Văn T. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của tr em sau khi ly hôn cần giao con chung tên Trần Đăng K và Trần Đăng K1 cho anh T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại đơn khởi kiện ngày 11/10/2019 và lời khai trong quá trình tố tụng, anh Trần Văn T xác định chỉ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị Lý Ngọc V phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Xét đây là ý chí tự định đoạt của đương sự nên ghi nhận sự tự nguyện của anh T về việc không yêu cầu chị V thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Anh Trần Văn T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[7] Từ những phân tích nêu trên, Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

[8] Về ánộphí: Anh Trần Văn T phải chịu ánộphí ly hôn theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 B luật Tố tụng dân sự và Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 B luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ Điểm a Khoản 5 và Điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng ánộphí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Anh Trần Văn T được ly hôn với chị Lý Ngọc V (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 45 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Đ vào ngày 27/8/2001).

2. Về con chung: Tiếp tục giao con chung tên Trần Đăng K, sinh ngày 16/11/2004 và Trần Đăng K1, sinh ngày 23/12/2011 cho anh Trần Văn T trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Trần Văn T về việc không yêu cầu chị Lý Ngọc V thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh Trần Văn T và chị Lý Ngọc V đều có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con, không ai được quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp chị Lý Ngọc V lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc anh Trần Văn T nuôi con thì anh T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Anh Trần Văn T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng đã nộp theo Biên lai số 0040018 ngày 16/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 29/05/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:36/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;