Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 09/09/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 36/2020/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 09 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 137/2020/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2020 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2020/QĐXXST–HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thúy H; Sinh năm 1981.

Đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 0 ấp Đ, xã L, huyện T, tỉnh S.

Tạm trú: Số 0 ấp H, xã A, huyện C, tỉnh S (Bà H vắng mặt – có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Lâm Phước A; Sinh năm 1980.

Địa chỉ: Số 0 ấp Đ, xã L, huyện T, tỉnh S (Ông A vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Trần Thúy H trình bày:

 Bà với ông Lâm Phước A tổ chức lễ cưới vào năm 2012. Nhưng đến năm 2013, ông bà mới đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh S và được Ủy ban nhân dân xã L cấp giấy chứng nhận kết hôn số 112 ngày 21 tháng 5 năm 2013. Ông bà chung sống hạnh phúc cho đến năm 2015 thì phát sinh sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai người bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã làm cho cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Hai người đã không còn sống chung từ tháng 7 năm 2016 cho đến nay.

Trong quá trình chung sống, bà H với ông A có hai con chung tên Lâm Trần K A, sinh ngày 05/3/2013 và Lâm T L, sinh ngày 02/10/2014. Hiện hai cháu đang sống với bà H.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Nay bà Trần Thúy H yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với ông Lâm Phước A.

- Về con chung: Yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con. Không yêu cầu ông A cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà H trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Lâm Phước A không có lời trình bày do vắng mặt.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã ban hành thông báo thụ lý số 137/TB-TLVA ngày 29 tháng 6 năm 2020, tống đạt hợp lệ cho bị đơn ông Lâm Phước A nhưng ông A không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thúy H. Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ hai lần đối với ông A để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông A đều vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành mở phiên họp và đã lập biên bản không tiến hành hòa giải được. Đồng thời đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tính đến ngày Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, vụ án còn trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thúy H ly hôn với ông Lâm Phước A. Về con chung: Giao hai con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục. Ông Lâm Phước A không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bà Trần Thúy H và ông Lâm Phước A đều vắng mặt nhưng nguyên đơn bà Trần Thúy H có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, còn ông Lâm Phước A mặc dù đã được tống đạt giấy triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do đó Tòa án căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt đối với bà H và ông A.

[2] Về nội dung: Bà Trần Thúy H và ông Lâm Phước A kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh S cấp giấy chứng nhận kết hôn số 112 ngày 21 tháng 5 năm 2013 nên quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông A là hợp pháp.

[3] Xét lý do xin ly hôn của bà H, Hội đồng xét xử thấy, sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng bà H, ông A hạnh phúc cho đến khoảng năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai người bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã. Hai người không còn chung sống với nhau từ tháng 7 năm 2016 cho đến nay. Thời gian ly thân vợ chồng không ai tới lui, chăm sóc nhau. Hội đồng xét xử xét thấy bà H, ông A đã mâu thuẫn, bất đồng ý kiến trong thời gian dài, tình trạng hôn nhân của vợ chồng ông, bà trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H.

[4] Về con chung: Hai cháu Lâm Trần K A, sinh ngày 05/3/2013 và Lâm T L, sinh ngày 02/10/2014 đang sống cùng bà H. Bà H yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con. Xét thấy, bà H có đủ điều kiện nuôi con nên yêu cầu này là có căn cứ chấp nhận được quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định tại Điều 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà H không yêu cầu nên ông A không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H trình bày không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do bà H yêu cầu nên bà H phải chịu theo luật định.

[8] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Trần Thúy H.

- Về hôn nhân: Bà Trần Thúy H được quyền ly hôn với ông Lâm Phước A.

- Về con chung: Giao hai cháu Lâm Trần K A, sinh ngày 05/3/2013 và Lâm T L, sinh ngày 02/10/2014 cho bà Trần Thúy H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ông Lâm Phước A không phải cấp dưỡng cho con. Ông Lâm Phước A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp ông Lâm Phước A lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà Trần Thúy H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Lâm Phước A. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà H trình bày không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn bà Trần Thúy H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2017/0002173 ngày 19/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Só. Như vậy bà Trần Thúy H đã nộp xong án phí.

- Về quyền kháng cáo bản án: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 09/09/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:36/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;