Bản án 36/2020/DS-ST ngày 12/05/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và đòi tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 36/2020/DS-ST NGÀY 12/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN VÀ ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 17/2020/TLST–DS ngày 13 tháng 01 năm 2020 về việc tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2020/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà NGUYỄN BÍCH T, sinh năm 1960 (Có mặt) Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bị đơn: Anh NGUYỄN TIẾN T, sinh năm 1979 (Vắng mặt) Chị HUỲNH THỊ C, sinh năm 1982 (Vắng mặt) Cùng địa chỉ: ấp A, xã A, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai cùng ngày 23/9/2019 và lời khai tại Toà, nguyên đơn bà Nguyễn Bích T trình bày:

Bà là thương lái mua lúa, gạo của người khác mang đến nhà máy, kho của vợ chồng C, T để lau bóng, lưu gửi chờ có thương lái bán và vợ chồng C, T mua gạo của bà cụ thể:

Ngày 23/7/2018, bà T có bán cho vợ chồng chị C, anh T số lượng gạo là 70 bao (loại gạo 504) số tiền 35.700.000đ, chưa thanh toán tiền.

Ngày 26 và 30/7/2018 bà T gửi kho của vợ chồng chị C, anh T trong đó ngày 26/7/2018 số lượng là 240 bao gạo (loại 540), ngày 30/7/2018 số lượng là 200 bao gạo (loại 504). Tổng cộng là 440 bao. Sau đó, vợ chồng C, T đã bán cho người khác số lượng 184 bao số tiền 93.840.000đ, không thanh toán lại cho bà.

Tổng cộng số tiền mà vợ chồng C, T còn thiếu bà là 129.540.000đ.

Nay bà T yêu cầu vợ chồng anh T, chị C phải liên đới trả số tiền 129.540.000đ và chịu lãi bằng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định, kể từ ngày 01/8/2019 đến ngày Tòa án đưa vụ việc xét xử một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn anh Nguyễn Tiến T và chị Huỳnh Thị C: Không có văn bản ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà T, đồng thời vắng mặt không rõ lý do.

Tại phiên tòa, nguyên đơn đã tự nguyện thay đổi yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu bị đơn phải liên đới trả số tiền 129.540.000đ, không yêu cầu tính lãi suất từ ngày 01/8/2019 đến ngày Tòa án đưa vụ việc xét xử một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật; Bị đơn vắng mặt không lý do.

Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa: Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử và của các đương sự chấp hành đúng qui định của pháp luật tố tụng dân sự. Hiện tại thì chưa phát hiện sai sót gì để kiến nghị khắc phục. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc chị C và anh T liên đới trả số tiền 129.540.000đ. Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không yêu cầu tính lãi suất phát sinh từ ngày 01/8/2019 cho đến ngày Tòa xét xử là không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu, phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Anh Nguyễn Tiến T, chị Huỳnh Thị C vắng mặt không rõ lý do mặc dù đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ theo quy định tại các Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh T, chị C.

[2] Theo lời trình bày của nguyên đơn cho rằng vợ chồng anh T, chị C vào ngày 23/7/2018 có mua của bà T 70 bao gạo số tiền 35.700.000đ, vào ngày 26, 30/7/2018, bà T có gửi kho bị đơn số lượng 440 bao gạo và bị đơn đã bán cho người khác 184 bao gạo số tiền 93.840.000đ, đến nay bị đơn chưa thanh toán cho bà T nên xác định quan hệ tranh chấp giữa các bên là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và tranh chấp đòi tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Cái Bè theo quy định tại Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Đồng thời, tại phiên tòa, nguyên đơn tự nguyện thay đổi yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu bị đơn phải liên đới trả số tiền 129.540.000đ, không yêu cầu tính lãi suất từ ngày 01/8/2019 đến ngày Tòa án đưa vụ việc xét xử một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Xét thấy, việc thay đổi yêu cầu trên là hoàn toàn tự nguyện, không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử tôn trọng, chấp nhận quyền tự định đoạt của đương sự.

Về nội dung:

[2] Tại phiên tòa, nguyên đơn khẳng định vào ngày 23/7/2018, vợ chồng bị đơn có mua của nguyên đơn 70 bao gạo số tiền 35.700.000đ và vào ngày 26, 30/7/2018, nguyên đơn có gửi kho bị đơn số lượng 440 bao gạo và bị đơn đã bán cho người khác 184 bao gạo số tiền 93.840.000đ, đến nay bị đơn chưa thanh toán. Mặc dù, giữa các bên tin tưởng không có làm giấy tờ hay biên nhận gì nhưng căn cứ vào chứng cứ được thu thập tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cái Bè có trong hồ sơ vụ án thể hiện chị C có thừa nhận còn thiếu bà T tiền mua gạo đối với 254 bao gạo là 129.540.000đ. Đồng thời, trong quá trình thụ lý vụ án Toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự cho bị đơn để đảm bảo quyền nêu ý kiến, cũng như hoà giải để các bên có điều kiện thương lượng, thoả thuận vấn đề tranh chấp nhưng bị đơn vẫn không có văn bản trình bày ý kiến và vắng mặt không lý do. Chứng tỏ, anh T, chị C cố tình từ bỏ quyền phản đối, quyền chứng minh của mình và thể hiện anh, chị đã không phản bác đối với việc khởi kiện của nguyên đơn. Từ đó, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Bích Thủy là có căn cứ và Toà án có đủ cơ sở buộc bị đơn anh T, chị C phải liên đới chịu trách nhiệm trả số tiền còn thiếu là 129.540.000đ cho nguyên đơn theo quy định tại Điều 288 Bộ luật dân sự.

[3] Về án phí: Bị đơn phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[4] Xét ý kiến phát biểu của vị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 166, Điều 288, Điều 357, Điều 440, Điều 468 của Bộ luật dân sự; và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Bích T.

Buộc anh Nguyễn Tiến T và chị Huỳnh Thị C phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Bích T số tiền 129.540.000đ.

Kể từ ngày bà Nguyễn Bích T có đơn yêu cầu thi hành án nếu anh Nguyễn Tiến T, chị Huỳnh Thị C chậm thi hành đối với phần tiền thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Về án phí: Chị C, anh T phải liên đới chịu 6.477.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho bà Nguyễn Bích T số tiền 3.238.500đ tạm ứng án phí theo biên lai số 0002989 ngày 13/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt thời hạn nêu trên được tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 36/2020/DS-ST ngày 12/05/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và đòi tài sản

Số hiệu:36/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;