TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 36/2019/HNGĐ-PT NGÀY 28/02/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 28 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 32/2019/TLPT-HNGĐ ngày 24/01/2019 về việc: “ Tranh chấp hôn nhân và gia đình”.
Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 55/2018/HNGĐST ngày 26/12/2018 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà T bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 03/2019/QĐXXPT-HNGĐ ngày 20/02/2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Hương G- sinh năm 1987; Địa chỉ: Liền kề Long Ph 4 - 92 Khu đô thị Vinhomes Thăng L, Nam An Kh, huyện Hoài Đ, Hà Nội. Nghề nghiệp: Giám đốc vận hành công ty T ( Có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Gi:Luật sư Trần Đình Tr và Bùi Thị Th - Văn phòng luật sư Vì D- Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.
Bị đơn: Anh Hoàng Tám Ph- sinh năm 1978; Địa chỉ: phòng 2606-T7 KĐT T 458 Minh Kh, Hai Bà T, Hà Nội. Nghề nghiệp: Luật sư- Giảng viên (Có mặt) .
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn chị Hoàng Thị Hương G trình bày:
Chị và anh Hoàng Tám Ph chung sống với nhau từ năm 2012 trên cơ sở tự nguyện đến ngày 26/7/2013 vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND xã Giao T, huyện Giao Th, tỉnh Nam Đ. Trước đấy anh Ph đã có vợ và đã ly hôn, còn chị chưa có chồng. Sau khi kết hôn, chị sang Mỹ học, mấy tháng sau anh Ph cũng sang Mỹ với chị. Năm 2015, vợ chồng về Việt Nam chung sống tại phòng 2606, T7, khu đô thị T, 458 Minh Kh, Hai Bà T, Hà Nội. Mâu thuẫn vợ chồng từ tháng 12/2013. Theo chị do anh Ph nghi ngờ chị có quan hệ ngoại tình với người khác nên vợ chồng bất đồng quan điểm, anh Ph thường xuyên có hành vi bạo hành gia đình, xúc phạm chị và gia đình chị. Chị đã có lần nộp đơn xin ly hôn tại tòa án, sau đó chị rút đơn về để vợ chồng thỏa thuận về nuôi con. Song, sau đó vợ chồng chị mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không có tiếng nói chung. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh Ph, chị xin được ly hôn anh Ph.
Vợ chồng chị có một con chung là Hoàng Tuệ M, sinh ngày 07/12/2014. Sau ly hôn chị xin được nuôi con, không yêu cầu anh Ph đóng góp tiền nuôi con.
Về tài sản chung, nhà ở và công nợ: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Hoàng Tám Ph trình bày: Anh nhất trí với việc chị Gi trình bày về điều kiện kết hôn. Anh xác nhận vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị Gi có quan hệ với người đàn ông khác dẫ đến vợ chồng bất đồng quan điểm, mất niềm tin đối với nhau. Tháng 6/2015, vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai mặc dù chung sống một nhà. Tháng 10/ 2018 chị Gi đã về nhà bố mẹ đẻ ở cho đến nay.
Nay anh xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, chị Gi xin ly hôn thì anh cũng đồng ý.
Vợ chồng có một con chung như chị Gi trình bày, anh là người chăm sóc cháu từ khi sinh ra cho đến nay. Nếu phải ly hôn anh xin được nuôi con, không yêu cầu chị Gi cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nhà ở, công nợ: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bản án số 55/2018/HNGĐST ngày 26/12/2018 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà T đã xử và quyết định:
1/ Chấp nhận đơn ly hôn của chị Hoàng Thị Hương G đối với anh Hoàng Tám Ph. Chị Hoàng Thị Hương G được ly hôn anh Hoàng Tám Ph.
2/ Về con chung: Xác nhận chị Gi và anh Ph có 01 con chung là cháu Hoàng Tuệ M sinh ngày 7/12/2014. Giao con chung của anh chị cho chị Gi trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Gi trực tiếp nuôi con và các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Chị Gi không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
3/ Về tài sản chung, công nợ: Chị Gi, anh Ph cùng xác nhận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các bên đương sự. Không đồng ý với bản án ngày 26/12/2018, anh Ph có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại Phên tòa phúc thẩm, chị Gi không rút đơn khởi kiện, anh Ph chỉ kháng cáo xin được nuôi con, còn về tình cảm và tài sản chung anh không kháng cáo. Các bên đương sự không tự thỏa thuận với nhau để giải quyết vụ án. Anh Ph xuất trình tài liệu chứng cứ mới:
- Giấy xác nhận của trường Vinschool về việc cung cấp thông tin liên quan tới cháu Hoàng Tuệ M- học sinh lớp Pooh 9, trường mầm non Vinschool;
- Bản dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt có xác nhận của công ty dịch thuật Bảo Minh ngày 27/2/2019;
- Biên bản xác nhận sự việc ngày 31/1/2019 tại trường Vinschool về việc xác nhận sự việc xảy ra tại trường giữa anh Ph với chị Gi;
- Vi bằng của văn phòng thừa phát lại quận Hà Đ lập ngày 25/02/2019;
- Giấy xác nhận của bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị H là hai người giúp việc cho anh Ph;
- Giấy xác nhận của anh Hoàng Thọ T đề ngày 26/2/2019;
- Biên bản làm việc đề ngày 30/11/2018 giữa chị Gi với anh Ph;
- Sổ phụ kiêm báo nợ/có của anh Ph tại Ngân hàng TMCP Kỹ Th Việt nam;
Anh Ph kháng cáo xin được nuôi con, không yêu cầu chị Gi đóng góp tiền nuôi con. Anh khai rằng từ khi cháu M sinh ra cho đến nay người nuôi dưỡng, chăm sóc đưa đón con đi học, quan tâm sức khỏe của con do anh đảm nhiệm là chính. Khi cháu M sinh ra được ít tháng chị Gi không có sữa, anh là người kết nối để có nguồn sữa mẹ nuôi cháu M. Anh là người nuôi con ở bên con từ khi sinh ra cho đến nay, anh giành nhiều thời gian với con đưa đón con đi học, chăm sóc, tiền học của con hầu như anh đóng toàn bộ, anh có nhà ở đầy đủ tiện nghi, anh có thu nhập cao đảm bảo về điều kiện kinh tế để nuôi con tốt nhất. Hơn nữa hiện nay cháu Tuệ M đang sống với anh, cháu được đi học tại trường Vinshool là môi trường nuôi dưỡng dậy trẻ tốt nhất, cháu khỏe mạnh phát triển bình thường. Việc này nhà trường cũng đã xác nhận, để tránh sự xáo trộn trong cuộc sống sinh hoạt của cháu anh đề nghị để anh nuôi con. Anh vẫn tạo điều kiện cho chị Gi đón con ngày cuối tuần theo thỏa thuận. Anh cho rằng chị Gi đã vi phạm thỏa thuận về việc đón con, nên chị Gi cũng không có quyền nuôi con.
Chị Gi không đồng ý để con cho anh Ph nuôi. Chị cho rằng anh Ph công việc bận rộn hay phải đi công tác, hơn nữa ở một mình nên không ai giúp đỡ khi anh vắng nhà. Chị có đủ điều kiện để nuôi con chị đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm.
Luật sư Trần Đình Tr và luật sư Bùi Thị Th bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Gi trình bày luận cứ bảo vệ có những điểm sau:
- Vợ chồng chị Gi anh Ph có một con chung là Hoàng Tuệ M hiện nay hơn 4 tuổi là con gái còn nhỏ nên giao con cho mẹ nuôi là tốt nhất. Chị Gi là người có đủ điều kiện nuôi con tốt, có học vấn, có thu nhập tốt, chị Gi hiện ở cùng với bố mẹ đẻ nên bố mẹ chị sẽ giúp đỡ chị trong việc chăm con. Anh Ph là người không trung thực, gian dối, anh có hành vi bạo hành gia đình, anh Ph có người thân đang bị điều tra về ma túy nên anh Ph không đủ tư cách để nuôi con, đề nghị được giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Việc Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng trình tự thủ tục kể từ khi thụ lý vụ án đến khi trước thời gian nghị án.
Về nội dung: Đơn kháng cáo của anh Ph làm trong hạn luật định là hợp lệ. Anh Ph kháng cáo xin được nuôi con xét thấy: Cả anh Ph và chị Gi đều có điều kiện nuôi con. Tuy nhiên đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con tốt nhất thì nên xem xét giao con cho người đó nuôi. Thực tế thì cháu Tuệ M hiện đang ở với anh Ph, cháu đi học gần nhà, môi trường học tốt để phát triển toàn diện. Các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và tài liệu chứng cứ mới tại phiên tòa do anh Ph xuất trình thể hiện thời gian đưa đón con đi học, đóng học phí, khám bệnh định kỳ cho con, mua bảo hiểm cho con đều do anh Ph thực hiện. Anh có nhà ở riêng, trường học, bệnh viện trong khu đô thị có không gian sống tốt. Anh có thu nhập cao. Cháu M phát triển bình thường. Để tránh sự xáo trộn cuộc sống cũng như sinh hoạt của cháu Tuệ M thì giao con cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp, cần sửa án sơ thẩm giao cháu Tuệ M cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ph không yêu cầu chị Gi cấp dưỡng tiền nuôi con, chị Gi có quyền đi lại chăm sóc con chung không ai được cản trở.
Anh Ph không phải chịu án phí phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại Phên tòa, qua kết quả tranh tụng tại Phên tòa, qua nghị án, Hội đồng xét xử nhận thấy :
[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý đúng thẩm quyền.
Đơn kháng cáo của anh Hoàng Tám Ph làm trong hạn luật định và nộp tạm ứng án phí phúc thẩm đúng thời hạn nên được xem xét.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của anh Ph: Tại Phên tòa phúc thẩm anh Ph trình bày anh chỉ có kháng cáo xin được nuôi con chung, còn về tình cảm và tài sản chung, các phần khác anh không kháng cáo.
Hội đồng xét xử thấy:
Chị Hoàng Thị Hương G và anh Hoàng Tám Ph có đăng ký kết hôn năm 2013 tại UBND xã Giao T, huyện Giao Th, tỉnh Nam Đ là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống đến năm 2015 thì vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do thiếu lòng tin đối với nhau từ đó dẫn đến bất đồng và vợ chồng đã sống ly thân. Từ tháng 10/2018, chị Gi đã về nhà bố mẹ đẻ ở khu Nam An Kh, huyện Hoài Đ, Hà Nội cho đến nay. Nay chị Gi xác nhận không còn tình cảm với anh Ph, chị xin được ly hôn anh Ph, anh Ph cũng đồng ý ly hôn. Bản án sơ thẩm chấp nhận đơn ly hôn của chị Gi và xử cho chị Gi được ly hôn anh Hoàng Tám Ph là có căn cứ. Các bên không kháng cáo nên không xem xét.
Anh Ph kháng cáo xin được nuôi con chung, HĐXX thấy:
Chị Hoàng Thị Hương G và anh Hoàng Tám Ph có một con chung là Hoàng Tuệ M, sinh ngày 07/12/2014. Cả chị Gi và anh Ph đều có nguyện vọng được nuôi con chung, đây là nguyện vọng rất chính đáng. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt nhất thì sẽ xem xét để giao con cho người đó trực tiếp nuôi dưỡng, người không được trực tiếp nuôi con vẫn có quyền đi lại, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản. Xét cả chị Gi và anh Ph đều có đủ điều kiện để nuôi con, đều có điều kiện về chỗ ở, thu nhập, chăm sóc con. Hiện tại cháu Tuệ M đang ở với anh Ph tại phòng 2606 - T7, khu đô thị T, đây là nơi ở có không gian sống tốt, có trường học Vinschool, bệnh viện Quốc tế V và có đầy đủ các tiện ích khác theo tiêu chuẩn quốc tế. Cháu M đang được học tại trường mầm non Vinschool cách nhà khoảng 500 m, đây là môi trường giáo dục tốt để phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ. Phía nhà trường Vinschool cũng xác nhận anh Ph là người đưa đón trả con hàng ngày ( 95 %) thi thoảng mẹ mới đón, trong thời gian cháu Tuệ M học tập tại trường, mọi thông tin trao đổi giữa giáo viên với phụ huynh thì nhà trường trao đổi với anh Ph và nhận được sự hợp tác tích cực về mọi phía gia đình, đưa đón con đúng giờ, con không nghỉ học, tham gia các phòng trào của lớp ( BL 198). Tại phiên tòa phúc thẩm anh Ph xuất trình thêm tài liệu, chứng cứ mới: “Giấy xác nhận của trường Vinschool ngày 24/12/2018 về việc cung cấp thông tin liên quan tới cháu Hoàng Tuệ M- học sinh lớp Pooh 9, trường mầm non Vinschool” xác nhận:.. “ từ tháng 6/2018 đến ngày 21/12/2018 anh Ph đón con, đưa con 173 buổi, chị Gi đón đưa con 85 buổi, giờ đón trẻ anh Ph là người đưa đón đúng giờ, chị Gi đón sớm 2 lần vào các ngày 2/11/2018( lúc 12 giờ 30) và ngày 9/11/2018 lúc 15 giờ. Về đóng học phí, các môn năng khiếu khác cho con thì anh Ph là người thực hiện ( BL 227, 228, 229). Chị Gi cũng công nhận việc đưa đón con trước đây do công việc của chị không thể về sớm, nên anh Ph là người đưa đón con thể hiện tại biên bản hòa giải ngày 3/10/2018 ( BL 122).
Trong hồ sơ còn thể hiện anh Ph là người đóng bảo hiểm cho con, tiêm chủng cho con, đưa con đi khám bệnh theo định kỳ tại bệnh viện đa khoa Quốc tế V( BL 199 đến BL 226).
Chị Gi cũng xác nhận hiện chị đang ở với bố mẹ đẻ chị tại khu Nam An Kh, Hoài Đức, Hà Nội. Bố mẹ chị có cho chị căn hộ tại khu Văn Kh, quận Hà Đ, Hà Nội, căn hộ này mới xây thô chưa ở được và cũng phù hợp với vi bằng do anh Ph xuất trình tại phiên tòa.
Chị Gi còn xác nhận chị chính thức không ở cùng với anh Ph và về nhà bố mẹ chị ở khu Nam An Kh, Hà Nội từ tháng 10/2018 cho tới nay. Chị vẫn được đón con từ chiều thứ sáu đến sáng thứ 2 thì đưa cháu về lớp học. Chị cho biết đoạn đường từ nhà bố mẹ chị ở khu Nam An Kh đến khu T, Hai Bà T, Hà Nội khoảng 25 km, đi lại xa, chị và con phải dậy sớm nên có lần chị trả con muộn do tắc đường.
Chị Gi cho rằng anh Ph ngăn cản không cho chị đón con, bạo hành gia đình, gian dối tuy nhiên chị không đưa ra được chứng cứ gì để chứng minh, trong hồ sơ không thể hiện điều này. Giữa chị với anh Ph đã thỏa thuận việc chăm con, đưa đón con, chính chị Gi là người tự viết ra thỏa thuận ngày 30/11/2018. Theo thỏa thuận thì anh Ph là người chăm sóc con đưa đón con từ chiều thứ hai đến sáng thứ 6 hàng tuần, chị Gi sẽ đón con từ chiều thứ 6 ( sau khi con tan học từ 16 giờ) và sẽ đưa con đi học từ thứ hai trước 8 giờ. Luật sư Th cũng xác nhận chính luật sư là người giúp chị Gi viết thỏa thuận này. Theo xác nhận của nhà trường thì chị Gi đón sớm 2 lần vào các ngày 2/11/2018( lúc 12 giờ 30) và ngày 9/11/2018 lúc 15 giờ. Như vậy chị Gi vẫn được đưa đón con, mà không có ai ngăn cản. Chị còn đón con sớm, không đảm bảo giờ học cho con.
[3] Từ các phân tích trên thấy rõ ràng anh Ph là người nuôi dưỡng, chăm sóc con là chủ yếu, về điều kiện nuôi con tốt hơn chị Gi. Cháu Tuệ M đã hơn 4 tuổi và không nằm trong trường hợp con dưới 36 tháng tuổi phải giao cho mẹ nuôi và không phải là cứ con gái thì giao cho mẹ nuôi. Thời gian cháu Tuệ M ở với anh Ph cháu phát triển tốt, giáo dục tốt về thể chất, sức khỏe, cho đến nay không có căn cứ nào xác nhận anh Ph vi phạm về quyền trẻ em. Trong vụ án này chị Gi và anh Ph không đạt được thỏa thuận người trực tiếp nuôi con. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình; căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của cháu Tuệ M và hơn nữa là tránh sự xáo trộn trong cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày của cháu Tuệ M cần sửa án sơ thẩm giao cháu Tuệ M cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ph không yêu cầu chị Gi cấp dưỡng nuôi con. Chị Gi có quyền đi lại chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.
[4] Về tài sản chung: Các bên không kháng cáo, không có kháng nghị nên không xét.
[5]Về án phí: Do sửa án sơ thẩm nên anh Ph không phải chịu án phí phúc thẩm ly hôn, hoàn lại cho anh Ph 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm. Chị Gi phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Đề nghị của luật sư không phù hợp với nhận định của hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng :
- Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự ;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí tòa án.
Chấp nhận yêu cầu kháng của anh Hoàng Tám Ph. Sửa bản án sơ thẩm số 55/2018/HNGĐPT ngày 26/12/2018 của tòa án nhân dân quận Hai Bà T về con chung và xử như sau :
1/ Chấp nhận đơn ly hôn của chị Hoàng Thị Hương G đối với anh Hoàng Tám Ph. Chị Hoàng Thị Hương G được ly hôn anh Hoàng Tám Ph.
2/ Về con chung: Xác nhận chị Gi và anh Ph có 01 con chung là cháu Hoàng Tuệ M sinh ngày 07/12/2014. Giao cháu Hoàng Tuệ M sinh ngày 7/12/2014 cho anh Hoàng Tám Ph trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Ph không yêu cầu chị Gi cấp dưỡng nuôi con. Chị Gi được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.
3/ Về tài sản chung, công nợ: Chị Gi, anh Ph không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.
4/ Về án phí : Chị Hoàng Thị Hương G phải chịu 300.000 đồng án phí LHST được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí tại biên lai số 4042 ngày 10/7/2018 ngày tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà T, Hà Nội.
Anh Hoàng Tám Ph không phải chịu án phí ly hôn phúc thẩm. Trả lại anh Ph số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai số 2523 ngày26/12/2018 tại chi cục thi hành án quận Hai Bà T, Hà Nội.
Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án ( 28/02/2019).
Bản án 36/2019/HNGĐ-PT ngày 28/02/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 36/2019/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/02/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về