TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ – TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 36/2019/DS-ST NGÀY 02/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ GÓP HỌ, HỤI
Trong ngày 02 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 99/2019/TLST-DS ngày 02 tháng 5 năm 2019, về “Tranh chấp hợp đồng dân sự góp họ, hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2019/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: anh Huỳnh Duy A, sinh năm 1986 (có mặt).
Địa chỉ: Số nhà B2-16 L, khu phố 6, phường A, Tp. R, Kiên Giang.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Mộng T, sinh năm 1966 (có mặt).
Ông Trần Thái T1, sinh năm 1967 (có mặt)
ĐKTT: Số nhà 10 - 6C đường T, khu phố 3, phường V, Tp. R, Kiên Giang. Chổ ở hiện nay: Quốc lộ 80, xã B, huyện C, Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/4/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn anh Huỳnh Duy A trình bày: anh A có tham gia chơi 02 phần hụi của dây hụi 5.000.000 đồng/tháng do bà T, ông T1 làm chủ hụi, hụi áp vào ngày 15/3/2018 âm lịch, gồm có 17 phần, có 13 hụi viên, hụi xổ đến lần thứ 10 thì bà T, ông T1 tuyên bố bể hụi. Sau khi bể hụi bà T có làm tờ thỏa thuận xác định nợ tiền hụi gốc và lãi là 80.000.000 đồng và hẹn trả 02 lần, lần 01 vào ngày 29/3/2019 sẽ trả 40 triệu đồng, lần 2 trong vòng 02 tháng tiếp theo sẽ trả đủ, nhưng đến nay bà T, ông T1 vẫn không trả nợ.
Anh A xác định khi tham gia chơi hụi bà T, ông T1 có giao cho anh A danh sách hụi viên, anh A đã đóng được 10 lần hụi sống thì bể hụi và mỗi lần xổ hụi anh A đều có mặt, chỉ có 01 lần là không có mặt; số tiền thực tế đã đóng cho bà T, ông T1 của 02 phần hụi là 63.400.000 đồng. Anh A xin rút 01 phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền hụi là 16.600.000 đồng.
Nay anh A yêu cầu Toà án giải quyết buộc bà Nguyễn Thị Mộng T, ông Trần Thái T1 phải trả số tiền hụi hụi gốc là 63.400.000 đồng và không yêu cầu tính lãi suất.
* Tại tờ tường trình ngày 18/5/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn bà Nguyễn Thị Mộng T, ông Trần Thái T1 trình bày: Ngày 15 tháng 3 năm 2018 âm lịch bà T, ông T1 có làm chủ hụi, dây hụi 5.000.000 đồng/tháng, một tháng xố 01 lần, A tham gia 02 phần hụi vẫn còn sống. Dây hụi xổ đến lần thứ 10 thì bể hụi vào ngày 15/11/2018 âm lịch. Số tiền A đã đóng hụi 10 kỳ hụi sống của 02 phần hụi tổng cộng được là 63.400.000 đồng.
Bà T, ông T1 xác định sau khi bể hụi ông bà có làm tờ thỏa thuận còn nợ của A số tiền hụi gốc và lãi là 80.000.000 đồng, nhưng không ghi số tiền gốc và lãi cụ thể là bao nhiêu và tờ thoả thuận là do bà T tự viết và tự ký tên tại nhà bà T, khi viết tờ thỏa thuận chỉ có bà T và anh A, ngoài ra không có ai chứng kiến; mục đích bà T, ông T1 viết tờ thoả thuận là do những người nợ tiền hụi hứa sẽ trả cho vợ chồng bà nhưng không trả, do đó vợ chồng bà không có tiền trả cho anh A. Lý do bị bể hụi là do những hụi viên sau khi hốt hụi không đóng lại tiền hụi chết cho vợ chồng bà, nên không có khả năng tràn tiền hụi cho người khác và ông bà đã tuyên bố bể hụi.
Nay bà T, ông T1 đồng ý trả cho anh A số tiền hụi đóng thực tế của 02 phần hụi là 63.400.000 đồng. Nhưng do hiện nay hoàn cảnh gia đình khó khăn nên chúng tôi xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi trả dứt số tiền trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quA hệ pháp luật tranh chấp: Đây là “Tranh chấp hợp đồng dân sự góp họ, hụi” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
[2] Về áp dụng pháp luật: Xét thấy anh Huỳnh Duy A và bà Nguyễn Thị Mộng T, ông Trần Thái T1 đã phát sinh giao dịch dân sự góp họ, hụi vào 15 tháng 3 năm 2018 âm lịch. Căn cứ Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 27 Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019, Hội đồng xét xử áp dụng các quy định và Điều luật của Bộ luật dân sự năm 2015 và Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ để giải quyết vụ án.
[3] Xét nội dung tranh chấp: Cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận anh Huỳnh Duy A có tham gia chơi 02 phần hụi dây hụi do bà Nguyễn Thị Mộng T, ông Trần Thái T1 làm chủ hụi áp ngày 15/3/2018 âm lịch, hụi 01 tháng xổ 01 lần là 5.000.000 đồng, gồm có 17 phần và 13 hụi viên là hụi có lãi và hưởng hoa hồng, xổ đến lần thứ 10 thì bể hụi. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm hai bên đều thống nhất tổng số tiền thực tế anh A đã đóng của 02 phần hụi sống là 63.400.000 đồng. Xét thấy việc tham gia chơi hụi giữa anh A và bà T, ông T1 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện không ai ép buộc, phù hợp với quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015 và tại các Điều 17, 27, 29 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ và tại Điều 29 có quy định về trách nhiệm của chủ họ do không giao các phần họ cho thành viên được lĩnh họ. Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, thì việc bà T, ông T1 còn nợ anh A số tiền hụi 63.400.000.000 đồng là có thật. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất buộc bà T, ông T1 có trách nhiệm trả cho anh Huỳnh Duy A số tiền hụi gốc là 63.400.000 đồng.
Tại phiên toà nguyên đơn anh Huỳnh Duy A xác định rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền nợ hụi là 16.600.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Huỳnh Duy A là hoàn toàn tự nguyện. Căn cứ vào khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận đình chỉ 01 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Huỳnh Duy A về việc yêu cầu bị đơn bà Nguyễn Thị Mộng T, ông Trần Thái T1 phải trả số tiền nợ hụi là 16.600.000 đồng.
Từ những cơ sở nhận định trên, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Huỳnh Duy A đối với bà Nguyễn Thị Mộng T, ông Trần Thái T1. Buộc bà Nguyễn Thị Mộng T, ông Trần Thái T1 phải có nghĩa vụ trả cho anh Huỳnh Duy A số tiền hụi gốc là 63.400.000 đồng.
[4] Về thời giA trả nợ: Bà T, ông T1 yêu cầu được trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng, nhưng anh A không chấp nhận. Nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trường hợp bà T, ông T1 có khó khăn thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án xem xét, giải quyết trong giai đoạn thi hành án.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội. Buộc bà Nguyễn Thị Mộng T, ông Trần Thái T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm của số tiền 63.400.000 đồng là: 63.400.000 đồng x 5% = 3.170.000 đồng.
Bà T, ông T1 có đơn xin miễn giảm án phí ngày 17/7/2019 và được chính quyền địa phương nơi cư trú xác nhận gia đình có hoàn cảnh khó khăn, nên Hội đồng xét xử chấp nhận giảm 50% tiền án phí dân sự sơ thẩm, số tiền án phí bà T, ông T1 phải nộp là: 3.170.000 đồng x 50% = 1.585.000 đồng.
Anh Huỳnh Duy A được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.000.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001631 ngày 03/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên GiAg.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 92, Điều 147; khoản 2 Điều 244; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 688; Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 27 Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019; các Điều 17, 27, 29 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ.
- Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Huỳnh Duy A về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự góp họ, hụi” đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Mộng T, ông Trần Thái T1.
- Buộc bà Nguyễn Thị Mộng T, ông Trần Thái T1 phải có nghĩa vụ trả cho anh Huỳnh Duy A số tiền hụi gốc là 63.400.000 đồng (sáu mươi ba triệu bốn trăm nghìn đồng) sau khi án có hiệu lực pháp luật.
- Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Huỳnh Duy A về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị Mộng T, ông Trần Thái T1 trả số tiền hụi là 16.600.000 đồng.
Hai bên trực tiếp giao nhận tiền hoặc giao nhận tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quA thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Án phí sơ thẩm có giá ngạch: Bà Nguyễn Thị Mộng T, ông Trần Thái T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.585.000 đồng (Một triệu năm trăm tám mươi lăm nghìn đồng).
Anh Huỳnh Duy A được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.000.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001631 ngày 03/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Nguyên đơn, bị đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cư ng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 36/2019/DS-ST ngày 02/08/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự góp họ, hụi
Số hiệu: | 36/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 02/08/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về