Bản án 36/2018/HNGĐ-ST ngày 03/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 36/2018/HNGĐ-ST NGÀY 03/07/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 03 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án số 102/2018/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2018/QĐST–HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Y; nơi cư trú: Thôn K, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn xin vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Hà Văn V; nơi cư trú: Thôn K, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt lần hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn xin ly hôn và quá trình tố tụng nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Ytrình bày: Chị và anh Hà Văn V kết hôn do tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND phường H, quận H, thành phố Hải Phòng vào năm 2002. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình bố mẹ đẻ anh V đến năm 2007 hai bên chuyển về sống tại thôn K, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Trong quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được vài năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, anh V nghiện ma túy dẫn đến vợ chồng va chạm bất hòa đánh cãi nhau, cuộc sống vợ chồng luôn sống trong tình trạng căng thẳng. Bản thân chị đã cố gắng tìm nhiều cách khắc phục mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Do cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc nên chị và anh V đã sống ly thân mỗi người một nơi từ cuối năm 2017 đến nay, không còn quan tâm và trách nhiệm với nhau nữa. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh V không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, vợ chồng không thể chung sống đoàn tụ với nhau, mụ c đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hà Văn V để chị ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị và anh Hà Văn V có hai con chung Hà Hoa N, sinh ngày 30 tháng 11 năm 2003 và Hà Mạnh H, sinh ngày 13 tháng 10 năm 2010. Ly hôn chị Y đề nghị Tòa án giao cho chị và anh V mỗi người nuôi một con chung, chị sẽ có trách nhiệm nuôi con Hà Mạnh H còn để anh V nuôi con Hà Hoa N không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào. Anh V yêu cầu nuôi cả hai con chung chị không chấp nhận.

Về tài sản chung: Chị và anh Hà Văn V không có tài sản chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Hà Văn V: Anh Hà Văn V đã được Tòa án nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để anh V đến Tòa án giải quyết việc chị Nguyễn Thị Yxin ly hôn nhưng anh V đều vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn và đã chấp hành đúng quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại các điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã vi phạm các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Vắng mặt không có lý do trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử, căn cứ vào các điều 28, 70, 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 39 Bộ luật Dân sự: Xử cho chị Nguyễn Thị Yđược ly hôn anh Hà Văn V. Về con chung: Giao con chung Hà Hoa N, sinh ngày 30 tháng 11 năm 2003 cho anh Hà Văn V nuôi dưỡng, giao con chung Hà Mạnh H, sinh ngày 13 tháng 10 năm 2010 cho chị Nguyễn Thị Y nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày 04 tháng 7 năm 2018 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Y phải nộp án phí sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét việc vắng mặt của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Yvà bị đơn anh Hà Văn V: Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã tiến hành các trình tự giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án đã giao Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho chị Y và anh V theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị Y có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt chị tại phiên tòa còn anh V tiếp tục vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị Yvà anh Hà Văn V.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự, căn cứ vào chứng cứ do đương sự cung cấp và các chứng cứ do Toà án thu thập đã có đủ cơ sở xác định lời khai của Nguyễn Thị Yvề thời gian, điều kiện kết hôn và quá trình chung sống giữa hai bên là đúng sự thật. Mâu thuẫn vợ chồng được thể hiện ở việc trong quá trình chung sống hai bên va chạm, bất hòa, đánh cãi nhau, không có hạnh phúc và hai bên đã sống ly thân từ cuối năm 2017 đến nay, không còn quan tâm và trách nhiệm đến nhau nữa. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, anh V nghiện ma túy. Mâu thuẫn hai bên đã được gia đình can thiệp giúp đỡ nhưng không khắc phục được. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã báo anh V đến để hòa giải tìm cách khắc phục mâu thuẫn. Tuy nhiên, anh V đều vắng mặt không có lý do, không tham gia phiên hòa giải để hai bên hàn gắn đoàn tụ, tại phiên tòa tiếp tục vắng mặt. Bản thân chị Y xác định chị không còn tình cảm vợ chồng với anh V, hôn nhân không có hạnh phúc, sống ly thân, mâu thuẫn hai bên không thể khắc phục đoàn tụ được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Hà Văn V.

Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa chị Nguyễn Thị Yvà anh Hà Văn V đã kéo dài và trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, sống ly thân, tình cảm vợ chồng không còn, do đó yêu cầu xin ly hôn của chị Y đối với anh V là có cơ sở, cần được chấp nhận để giải phóng cho hai bên khỏi sự ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân. Căn cứ vào các điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị Nguyễn Thị Yđược ly hôn anh Hà Văn V.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Yvà anh Hà Văn V có hai con chung Hà Hoa N, sinh ngày 30 tháng 11 năm 2003 và Hà Mạnh H, sinh ngày 13 tháng 10 năm 2010. Ly hôn chị Y đề nghị Tòa án giao cho chị và anh V mỗi người nuôi một con chung, chị có nguyện vọng nuôi con Hà Mạnh H còn để anh V nuôi con Hà Hoa N không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào. Còn anh V không có quan điểm về con chung. Xét việc nuôi dưỡng con chung là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, Căn cứ vào điều kiện nuôi dưỡng các con chung, nguyện vọng con chung nên giao cho chị Y nuôi dưỡng con chung Hà Mạnh H, giao cho anh Hà Văn V nuôi dưỡng con chung Hà Hoa N sau ly hôn là phù hợp. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày 04 tháng 7 năm 2018 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Ykhông yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, anh Hà Văn V không có quan điểm về tài sản chung. Do vậy, Hội đồng không xem xét giải quyết, sau này hai bên có tranh chấp sẽ xem xét giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Yphải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo của các đương sự: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, các điều 70, 143, 147, khoản 1 và điểm b khoản 2

Điều 227; Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 39 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 6, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Quốc hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Yđược ly hôn anh Hà Văn V.

2. Về con chung: Giao con chung Hà Hoa N, sinh ngày 30 tháng 11 năm 2003 cho anh Hà Văn V nuôi dưỡng, giao con chung Hà Mạnh H, sinh ngày 13 tháng 10 năm 2010 cho chị Nguyễn Thị Ynuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày 04 tháng 7 năm 2018 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Yphải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0015078 ngày 13 tháng 4 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị Yđã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Chị Nguyễn Thị Yvà anh Hà Văn V vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 36/2018/HNGĐ-ST ngày 03/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:36/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;