TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG – TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 36/2018/DS-ST NGÀY 03/10/2018 VỀ TRANH CHẤP VAY TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phước Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dn sự thụ lý số: 35/2018/TLST-DS ngày 08 tháng 3 năm 2018 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2018/QĐXX-ST ngày 20 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần B;
Địa chỉ: Số M, đường Tr, phường C, quận H, Khiêm phố H
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Trọng P, sinh năm 1977; Chức vụ: Trưởng phòng giám sát hoạt động Ngân hàng TMCP B- chi nhánh B.
Bị đơn: Bà Ngô Thị Ngọc T, sinh năm 1977
Địa chỉ: ấp M, xã phong T, huyện P, tỉnh Bạc Liêu.
(Ông Nguyễn Trọng P có mặt, bà T vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 28 tháng 02 năm 2018 và trong quá trình xét xử đại diện nguyên đơn ông Nguyễn Trọng P trình bày: Vào ngày 28/12/2016 Ngân hàng TMCP B (gọi tắt là Ngân hàng) có ký kết hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số 1296TC/2016/HĐTD/CNBL với bà Ngô Thị Ngọc T với số tiền vay là 150.000.000đ, mục đích vay là tiêu dùng, lãi suất vay là 12%/năm, thời hạn vay là 60 tháng, được phân từng kỳ trả nợ vào ngày 20 hàng tháng. Đến ngày 21/8/2017 bà T đã vi phạm hợp đồng là không trả nợ đúng hạn nên số tiền bà T vay đã chuyển sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 28/02/2018 tổng nợ mà bà T phải trả là 136.016.943đ. Trong đó nợ gốc là 127.500.000đ, nợ lãi chưa thanh toán là 8.075.687đ và nợ lãi quá hạn là 441.256đ. Sau khi Ngân hàng khởi kiện thì bà T đã thanh toán nợ cho Ngân hàng số tiền 18.087.749, tính đến ngày xét xử ngày 03/10/2018 thì bà T còn nợ Ngân hàng số tiền vay là 109.412.251đ, nợ lãi còn phải trả là 6.041.431đ, lãi phạt gốc là 444.822đ. Tổng cộng là 115.898.504đ. Từ đó Ngân hàng yêu cầu bà T có trách nhiệm trả số tiền trên, ngoài ra Ngân hàng rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền vay là 20.118439đ do bà T đã thanh toán xong.
Bị đơn bà Ngô Thị Ngọc T không có mặt theo thông báo triệu tập của Tòa án nên không thể thu thập lời khai từ bà T
Về chứng cứ Tòa án đã thu thập được: Sổ hộ khẩu, giấy CMND của bà Ngô Thị Ngọc T, Giấy đề nghị vay vốn, phiếu xác nhận giao dịch rút tiền, bản kê tính lãi phạt gốc và lãi, bản kê tính nợ vay, sao kê dư nợ, bản kê gốc và lãi khởi kiện; Hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số 1296TC/2016/HĐTD/CNBL ngày 28/12/2016; Thông báo nợ quá hạn, biên bản làm việc, bản tự khai của ông Nguyễn Trọng P.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Long phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm như sau:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật. Về các đương sự trong vụ án nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; riêng bà T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị xét xử vắng mặt đối với bà T.
Về nội dung: Ngân hàng TMCP B khởi kiện yêu cầu bà Ngô Thị Ngọc T trả cho Ngân hàng số tiền vay gốc và lãi là 136.016.943đ. Tại phiên tòa đại diện Ngân hàng rút một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bà T có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng số tiền 115.898.504đ, từ đó đề nghị đình chỉ một phần giải quyết vụ án. Việc bà T vay tiền của Ngân hàng là có căn cứ, thể hiện qua hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ thể hiện vào ngày 28/12/2016, bà T có vay số tiền 150.000.000đ, giải ngân vào ngày 28/12/2016 thông qua Bưu Điện Phước Long, ngoài ra Ngân hàng còn cung cấp 02 biên bản làm việc với bà T với nội dung bà T cam kết sẻ thanh toán đầy đủ số tiền trên. Bà T đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng bà T không có ý kiến gì, từ đó đề nghị chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng buộc bà T trả nợ vay là 115.898.504đ, trong đó số tiền vay là 109.412.251đ, nợ lãi còn phải trả là 6.041.431đ, lãi phạt gốc là 444.822đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngày 28 tháng 02 năm 2018 Ngân hàng TMCP B có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Ngô Thị Ngọc T trả nợ, gốc, lãi theo hợp đồng tín dụng đã ký kết, mục đích vay tiêu dùng. Do đó đây là quan hệ tranh chấp vay tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bạc Liêu. Tòa án nhân dân huyện P thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.
[2] Bà Ngô Thị Ngọc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn xét xử vụ án vắng mặt bà T.
[3] Về nội dung vụ án: Ngân hàng TMCP B khởi kiện yêu cầu bà Ngô Thị Ngọc T có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng số tiền vay gốc và lãi phải trả là 136.016.943đ. Trong đó nợ gốc là 127.500.000đ, nợ lãi chưa thanh toán là 8.075.687đ và nợ lãi quá hạn là 441.256đ. Tính đến ngày xét xử ngày 03/10/2018 thì bà T còn nợ Ngân hàng số tiền vay là 109.412.251đ, nợ lãi còn phải trả là 6.041.431đ, lãi phạt gốc là 444.822đ. Tổng cộng là 115.898.504đ. Từ đó Ngân hàng rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền vay là 20.118439đ do bà T đã thanh toán xong, xét việc rút một phần yêu cầu của Ngân hàng là có căn cứ, từ đó đình chỉ một phần giải quyết vụ án đối với yêu cầu của Ngân hàng.
Hội đồng xét xử xét thấy vào ngày 28/12/2016 Ngân hàng TMCP B chi nhánh tỉnh Bạc Liêu (gọi tắt là Ngân hàng) có ký kết hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số 1269TC/2016/HĐTD/CNBL với bà Ngô Thị Ngọc T với số tiền vay là 150.000.000đ, mục đích vay là tiêu dùng, lãi suất vay là 12%/năm, thời hạn vay là 60 tháng, được phân từng kỳ trả nợ vào ngày 20 hàng tháng. Đến ngày 21/8/2017 bà T đã vi phạm hợp đồng là không trả nợ đúng hạn nên số tiền bà T vay đã chuyển sang nợ quá hạn. Tính đến ngày xét xử, bà T còn nợ Ngân hàng số tiền phải trả là 109.412.251đ, lãi trong hạn là 6.041.431đ, lãi phạt gốc là 444.822đ, tổng cộng là 115.898.504đ. Do bà T là giáo viên trường A, xã P, huyện P nên nhà trường có xác nhận cam kết trích lương và các khoản thu nhập khác của bà T để thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay đối với Ngân hàng. Ngày 28/12/2016 bà T đã nhận tiền vay thể hiện qua phiếu xác nhận giao dịch rút tiền ngày 28/12/2016, đại diện Ngân hàng đã làm việc trực tiếp với bà T thông báo nợ quá hạn tại các biên bản làm việc ngày 20/6/2017 và ngày 20/7/2017; Bà T đã nhận được thông báo thụ lý số 35/2018/TLST-DS ngày 08/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện P thông báo cho bà T biết việc khởi kiện của Ngân hàng, bà T không có ý kiến cũng không có phản đối gì về việc khởi kiện trên. Từ đó có căn cứ xác định việc bà T vay và hiện còn nợ Ngân hàng là có thật, bà T đã vi phạm nghĩa vụ của người vay là không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ cho Ngân hàng theo quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Từ đó yêu cầu của Ngân hàng buộc bà T trả nợ vay là có căn cứ nên được chấp nhận.
[4] Tính đến ngày xét xử ngày 03/10/2018 thì bà T còn nợ Ngân hàng số tiền vay gốc là 109.412.251đ, nợ lãi còn phải trả là 6.041.431đ, lãi phạt gốc là 444.822đ. Tổng cộng là 115.898.504đ. Từ đó buộc bà T phải có nghĩa vụ trả cho ngân hàng số tiền là 115.898.504đ, ngoài ra thì trong giai đoạn thi hành án bà T còn phải chịu lãi suất quá hạn theo hợp đồng đã ký kết với Ngân hàng.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Ngô Thị Ngọc T phải chịu 5.794.925đ.
Từ những nhận định trên xét đề nghị của đại viện Viện kiểm sát nhân dân huyện P về nội dung giải quyết vụ án là có căn cứ nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng các Điều 26, 35, 227, 228, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng các Điều 357, Điều 463, Điều 466 và Điều 468 Bộ luật dân sự;
- Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần B đối với bà Ngô Thị Ngọc T về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Buộc bà Ngô Thị Ngọc T phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần B số tiền là 115.898.504đ (Một trăm mười lăm triệu tám trăm chín mươi tám nghìn năm trăm lẻ bốn đồng); Trong đó số tiền vay gốc là 109.412.251đ, nợ lãi còn phải trả là 6.041.431đ, lãi phạt gốc là 444.822đ.
2. Đình chỉ một phần giải quyết vụ án do Ngân hàng rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền là 20.118439đ.
3. Về án phí: Bà Ngô Thị Ngọc T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 5.794.925đ (Năm triệu bảy trăm chín mươi bốn nghìn chín trăm hai mươi lăm đồng); Hoàn lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần B số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.400.000đ (Ba triệu bốn trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0011555 ngày 08/3/2018 của Cơ quan thi hành án dân sự huyện P.
4. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán song khoản nợ gốc này.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án theo Điều 6; quyền và nghĩa vụ theo các Điều 7, 7a, 7b; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
6. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 36/2018/DS-ST ngày 03/10/2018 về tranh chấp vay tài sản
Số hiệu: | 36/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 03/10/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về