Bản án 36/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội chứa mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH N

BẢN ÁN 36/2017/HSST NGÀY 28/07/2017 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 28 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện H mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 31/2017/HSST ngày 23 tháng 6 năm 2017 đối với bị cáo: Trần Quốc T, sinh năm 1989;

ĐKHKTT: Tổ dân phố số 2, thị trấn Cồn, huyện H, tỉnh N; Chỗ ở hiện nay: Đội 14 xã Hải Tân, huyện H, tỉnh N; nghề nghiệp: Kinh doanh nhà nghỉ; Văn hóa: 11/12; Con ông: Trần Văn Khương, sinh năm 1958; Con bà: Đỗ Thị Liên, sinh năm 1961, đều trú tại: Đội 14 xã Hải Tân,huyện H, tỉnh N ; anh chị em ruột có 3 người, bị cáo là con thứ ba; Có vợ là Nguyễn Thị Như, sinh năm 1995, hiện đang làm ruộng tại đội 14 xã Hải Tân, huyện H, tỉnh N;  Bị cáo có 01 con sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/4/2017 đến ngày 04/5/2017 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”. (Bị cáo có mặt tại phiên toà) Người làm chứng: Đinh Văn Tuấn; sinh năm 1970

Địa chỉ: xóm trung xã Hải Xuân, huyện H, tỉnh N

Chị Phạm Thị Lý; sinh năm 1975

Địa chỉ: Thôn Xuân Lan, xã Văn Sơn, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai. Chị Nguyễn Thị Như; sinh năm 1995

Địa chỉ: Đội 14 xã Hải Tân, huyện H, tỉnh N.

Anh Trần Văn Khương; sinh năm 1958

Địa chỉ: Đội 14 xã Hải Tân, huyện H, tỉnh N.

( Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa)

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2003, ông Trần Văn Khương là bố đẻ anh Trần Quốc T đăng ký kinh doanh nhà trọ, bán hàng ăn uống lấy tên biển hiệu là Hải Yến tại nhà ở Đội 14, xã Hải Tân, huyện H. Nhưng từ cuối năm 2016, ông Khương đã giao nhà nghỉ Hải Yến cho Trần Quốc T là con trai làm chủ kinh doanh và quản lý điều hành nhà nghỉ. Tháng 4 năm 2017, T thuê Phạm Thị Lý về làm nhân viên phục vụ. Thấy điều kiện gia đình Lý khó khăn nên T đặt vấn đề với Lý “nếu có khách mua dâm chị có đi không” thì Lý đồng ý. T và Lý thỏa thuận mỗi lần mua bán dâm cho khách Lý sẽ được hưởng số tiền 80.000 đồng.  Khoảng 10h ngày 25/4/2017 anh Đinh Văn Tuấn đến nhà nghỉ Hải Yến gặp  T đặt vấn đề mua dâm, T đồng ý rồi vào nhà hỏi Lý “có khách muốn mua dâm chị có đi không”, Lý đồng ý. T đi ra quầy lễ tân thỏa thuận với Tuấn giá một lần mua bán dâm là 180.000 đồng. Tuấn đồng ý đưa số tiền trên cho  T. Sau đó, Lý đi ra và dẫn Tuấn vào phòng số 11 của nhà nghỉ để mua bán dâm. Khi vào phòng Lý và Tuấn tự cởi quần áo của mình, Lý lấy 01 bao cao su có sẵn ở cửa sổ phòng nghỉ xé ra đưa cho Tuấn, sau đó cả hai quan hệ tình dục với nhau. Đến 10 giờ 30 phút cùng ngày, khi Tuấn và Lý đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị Công an huyện H phát hiện bắt quả tang. Thu giữ 01 bao cao su đã qua sử dụng. Tại Cơ quan điều tra, Trần Quốc T đã khai nhận T bộ hành vi phạm tội của mình.

Người làm chứng: anh Đinh Văn Tuấn; chị Phạm Thị Lý, chị Nguyễn Thị Như, ông Trần Văn Khương vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai lưu tại hồ sơ vụ án phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay.

Tại bản cáo trạng số 33/CT-VKS  ngày 22/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh N tỉnh N đã truy tố bị cáo Trần Quốc T về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 254 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyên Hai Hâu , tỉnh N thực hành quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Quốc T phạm tội "Chứa mại dâm". Áp dụng khoản 1 Điều 254, điểm p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 15 đến 18; tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi kể từ ngày tuyên án và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng của vụ án đã thu giữ trong quá trình điều tra, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng không có ý kiến tranh luận gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát đã đề nghị.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi đúng như nội dung vụ án đã nêu; bị cáo ăn năn hối cải, hứa sửa chữa và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội phấn đấu trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi quyết định tố tụng trong điều tra,truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụn đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Quốc T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 10 giờ 30 ngày 25/4/2017, Đinh Văn Tuấn đến nhà nghỉ Hải Yến, ở đội 14 xã Hải Tân, huyện H, tỉnh N, gặp Trần Quốc T là chủ quản lý nhà nghỉ đặt vấn đề mua dâm.T đồng ý và gọi Phạm Thị Lý là nhân viên phục vụ nhà nghỉ bán dâm cho Tuấn để nhận số tiền 180.000đ. Khi Tuấn và Lý đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại phòng 11 nhà nghỉ Hải Yến thì bị Công an huyện H phát hiện bắt quả tang. Theo khoản 1 Điều 254 Bộ luật Hình sự “: “Người nào chứa mại dâm thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm”. Do đó Hành vi chứa mại dâm của Trần Quốc T có nội dung nêu ở trên có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Quốc T đã phạm vào tội  “Chứa mại dâm”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 254 Bộ luật Hình sự 1999.

Xét hành vi phạm tội chứa mại dâm mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó xâm hại đến trật tự công cộng, xâm phạm đạo đức xã hội, nếp sống văn minh, sức khoẻ của con người và là nguyên nhân làm lây truyền nhiều căn bệnh trong đó có bệnh thế kỷ HIV/AIDS gây tâm lý hoang mang bất bình trong quần chúng nhân dân. Do đó cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo nhằm trừng trị giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Trần Quốc T không có tiền án, tiền sự. Trong vụ án này bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn thật thà, ăn năn hối lỗi và hứa sửa chữa. Hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, đang phải nuôi con còn nhỏ, vợ bị cáo hay đau yếu, bố mẹ già yếu, bị cáo là lao động chính trong gia đình đã được chính quyền địa phương xác nhận nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Do đó Hội đồng xét xử có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình như đề nghị của kiểm sát viên Viện kiểm sát tại phiên toà hôm nay là phù hợp. Xét bị cáo là người có có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà có thể cho bị cáo được cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà hôm nay là phù hợp.

Đinh Văn Tuấn có hành vi mua dâm, Phạm Thị Lý có hành vi bán dâm là vi phạm hành chính nên Công an huyện H xử lý vi phạm hành chính là phù hợp pháp luật.

Ông Trần Văn Khương là bố đẻ của Trần Quốc T đứng tên trong giấy đăng ký kinh doanh nhà nghỉ, nhưng đã giao nhà nghỉ cho  T quản lý từ cuối năm 2016. Ông Khương không biết việc  T chứa mại dâm và Lý, Tuấn thực hiện hành vi mua bán dâm nên không có căn cứ để xử lý bằng pháp luật.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a,b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a,đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Xét cần tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 180.000đ do bị cáo thu lời bất chính mà có và tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao cao su đã thu giữ trong quá trình điều tra.

Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Quốc T phạm tội “Chứa mại dâm”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 254; điểm p khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt bị cáo Trần Quốc T 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng kể từ ngày tuyên án (bị cáo đã bị tạm giữ từ ngày 25/4/2017 đến ngày 04/5/2017).

Giao bị cáo Trần Quốc T cho UBND xã Hải Tân, huyện H, tỉnh N giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án Hình sự.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a,b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự , điểm a,đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố Tụng Hình sự:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 180.000đ do bị cáo Trần Quốc T thu lời bất chính mà có.

- Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao cao su là tang vật của vụ án.

(Các vật chứng nêu trên được mô tả như Biên bản giao vật chứng giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H và Chi cục Thi hành án dân sự huyện H ngày 27/07/2017 và Biên lai thu tiền số AA/2012/07372 ngày  27/07/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H).

3. Án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003; Điểm a Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ

Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án. Bị cáo Trần Quốc T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì Bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

526
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 36/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:36/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;