TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
BẢN ÁN 36/2017/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2017 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ L VÀ ANH N
Ngày 14 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 160/2017/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 11/08/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2017/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Kiều L, sinh năm 1982.
Địa chỉ: Tổ 0, thôn T, xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
-Bị đơn: Anh Dương Tấn N, sinh năm: 1977.
Địa chỉ: Tổ 0, thôn T, xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
(Chị L, anh N vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn chị Phạm Thị Kiều L trình bày:
Sau khi tìm hiểu nhau được khoảng 04 tháng thì chị L và anh N mới đi đến hôn nhân. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn ngày 19 tháng 12 năm 2000 tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã K, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Sau khi kết hôn thì vợ chồng sống riêng trên nhà đất do gia đình chị L cho ở nhờ. Thời gian đầu thì vợ chồng sống hạnh phúc, sống hạnh phúc đến năm 2006 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Vì thương con nên chị L đã cố gắng bỏ qua để tiếp tục chung sống lo cho con chung. Đến năm 2016 thì anh N lại thường xuyên ăn nhậu rồi về nhà kiếm cớ gây gổ, chửi bới, đánh đập chị L. Đến tháng 9-2016 vì không thể tiếp tục chung sống nên chị L đã dẫn theo người con chung về sống nhờ tại nhà em trai tại tổ 0, thôn T, xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cho đến nay. Trong thời gian ly thân thì anh N không đến thăm con cũng như phụ cấp thêm để chị L nuôi con chung. Nay, chị L yêu cầu Tòa án giải quyết:
Về hôn nhân: Chị L xin được ly hôn với anh N.
Về nuôi con chung: Chị L và anh N có 01 người con chung là Dương Chí B, sinh ngày 09-11-2001. Nguyện vọng của chị L xin được quyền tiếp tục nuôi dưỡng cháu Bảo và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.
Về chia tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Bị đơn không thực hiện đúng phần quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.
Về nuôi con chung: Giao cháu Dương Chí B, sinh ngày 09-11-2001 cho chị L nuôi dưỡng; Ghi nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.
Về chia tài sản chung: Chị L không yêu cầu nên không giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Chị L và anh N sống chung với nhau có đăng ký kết hôn nay chị L yêu cầu ly hôn nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Nơi cư trú của anh N là xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nên Tòa án nhân dân huyện Châu Đức thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Chị L vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 227; Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Anh N đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai (không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan) nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị L và anh N trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 19 tháng 12 năm 2000 tại UBND xã K, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2006 thì vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Đến năm 2016 thì anh N lại ăn nhậu, không lo làm ăn nên từ đó vợ chồng thường xuyên gây gổ. Sau khi thụ lý đơn yêu cầu ly hôn của chị L, Tòa án đã tiến hành triệu tập anh N để làm việc và hoà giải về quan hệ hôn nhân nhưng anh N vẫn không đến. Tòa án đã xác minh về tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh N tại địa phương nơi vợ chồng cư trú. Kết quả xác minh cho thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh N là có thật; Hiện chị L và cháu B không sống chung với anh N. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh N ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị L được ly hôn với anh N.
[3] Về nuôi con chung: Chị L và anh N có 01 người con chung là Dương Chí B, sinh ngày 09-11-2001. Xét thấy, từ khi chị L và anh N ly thân thì cháu B do chị L trực tiếp nuôi dưỡng, hiện cháu B đã trên 07 tuổi và nguyện vọng xin được sống với mẹ nên cần áp dụng khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình giao cháu B cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng; Ghi nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.
[4] Về chia tài sản chung: Chị L không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
[5] Về án phí: Chị L phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (DSST) đối với yêu cầu ly hôn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình.
1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Kiều L và anh Dương Tấn N.
2.Về nuôi con chung:
Giao cháu Dương Chí B, sinh ngày 09-11-2001 cho chị Phạm Thị Kiều L trực tiếp nuôi dưỡng.
Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phạm Thị Kiều L không yêu cầu anh Dương Tấn N cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh Dương Tấn N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà mình không trực tiếp nuôi dưỡng không ai được quyền cản trở.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3.Về chia tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4.Về án phí: Chị Phạm Thị Kiều L phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí DSST đối với yêu cầu ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) mà chị L đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Đức theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2016/000526 ngày 10 tháng 5 năm 2017; Chị Phạm Thị Kiều L đã nộp xong án phí DSST đối với yêu cầu ly hôn.
Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày đương sự nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.
Bản án 36/2017/HNGĐ-ST ngày 14/09/2017 về ly hôn giữa chị L và anh N
Số hiệu: | 36/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Đức - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về