Bản án 361/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P- TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 361/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ YÊU CẦU KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 345/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2020 về “Yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Thùy D, sinh năm 1991; Địa chỉ: ấp PT, xã CS, huyện MCN, tỉnh Bến Tre (có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1990; Địa chỉ: ấp VN, xã ĐĐ, huyện P, tỉnh Bến Tre (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Bùi Thị Thùy D có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nhưng theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai Chị D trình bày:

Chị D và anh Nguyễn Văn H quen biết nhau vào khoảng cuối tháng 6/2019, hôn nhân là do mai mối, có tìm hiểu một thời gian ngắn. Đến ngày 28/12/2019 được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục nhưng đến nay Chị D và Anh H không có đăng ký kết hôn theo quy định, sau khi cưới cũng không sống chung như vợ chồng. Nguyên nhân là do trước khi tổ chức đám cưới giữa Chị D và Anh H có nhiều bất đồng trong cuộc sống về lối suy nghĩ, hành xử và vấn đề tiền bạc, thậm chí Anh H còn ghen tuông vô cớ và dùng những lời lẽ xúc phạm làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của Chị D. Chị D nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, nếu có hàn gắn cũng không còn hạnh phúc nên nay Chị D yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về hôn nhân: Chị D yêu cầu Tòa án không công nhận chị và anh Nguyễn Văn H là vợ chồng.

- Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị D trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt và cũng không có ý kiến gửi đến Tòa án nên không có ý kiến trình bày.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án cho rằng:

- Về trình tự, thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử sơ thẩm và Thư ký đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử. Do nguyên đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng trong vụ án.

- Về nội dung: Căn cứ lời trình bày của Chị D và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án;

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 227, 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, các Điều 9, 14, 53 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Chị D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa, trên cơ sở lời trình bày của đương sự và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Bùi Thị Thùy D thì chị yêu cầu Tòa án không công nhận vợ chồng với anh Nguyễn Văn H theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; bị đơn anh Nguyễn Văn H cư trú tại xã ĐĐ, huyện P, tỉnh Bến Tre nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện P theo quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Chị D có yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt Chị D.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt cho anh Nguyễn Văn H các văn bản tố tụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng Anh H đều không có mặt theo thông báo, quyết định và giấy triệu tập của Tòa án. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Anh H.

[3] Về hôn nhân: Xét lời trình bày của Chị D, thấy rằng Chị D và Anh H có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình nhưng không có đăng ký kết hôn là vi phạm khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới, Chị D và Anh H không sống chung với nhau, nguyên nhân do trước khi tổ chức lễ cưới giữa Chị D và Anh H có nhiều bất đồng trong cuộc sống về lối suy nghĩ, hành xử và vấn đề kinh tế. Sau khi cưới xong những mâu thuẫn trên càng thêm trầm trọng, Anh H ghen tuông có những lời lẽ xúc phạm đe dọa Chị D làm cho Chị D không yên tâm trong công tác, mặc dù mâu thuẫn giữa Chị D và Anh H đã được gia đình hai bên giải thích hàn gắn nhưng vẫn không hàn gắn được.

Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy giữa Chị D và Anh H được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục nhưng không có sống chung như vợ chồng, mâu thuẫn giữa Chị D và Anh H xãy ra trầm trọng, không thể kéo dài cuộc sống chung. Do đó, việc Chị D yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị với Anh H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14 và khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị D trình bày không có con chung, Anh H không có lời trình bày nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét, giải quyết. Các bên được quyền yêu cầu giải quyết trong vụ án khác nếu có.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị D trình bày không có, Anh H không có lời trình bày nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét, giải quyết. Các bên được quyền yêu cầu giải quyết trong vụ án khác nếu có.

[6] Chị D phải nộp án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35; Điều 39 Điều 147 và Điều 227, 228, 238 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53, Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị Thùy D. Không công nhận quan hệ giữa chị Bùi Thị Thùy D và anh Nguyễn Văn H là vợ chồng.

2. Về con chung: Chị D trình bày không có con chung, Anh H không có lời trình bày nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét, giải quyết. Các bên được quyền yêu cầu giải quyết trong vụ án khác nếu có.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị D trình bày không có, Anh H không có lời trình bày nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét, giải quyết. Các bên được quyền yêu cầu giải quyết trong vụ án khác nếu có.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Bùi Thị Thùy D phải nộp 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0011757 ngày 11 tháng 8 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Pvà đã nộp xong.

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 361/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng

Số hiệu:361/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;